Điểm mới về phạm vi hoạt động của Cảnh sát biển Việt Nam

Luật Cảnh sát biển Việt Nam được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 6 ngày 19/11/2018 với 8 Chương, 41 Điều, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2019.

Luật quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của Cảnh sát biển Việt Nam; chế độ, chính sách đối với Cảnh sát biển Việt Nam; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

Tại Khoản 2, Điều 11 quy định: “Trong trường hợp vì mục đích nhân đạo, hòa bình, đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, Cảnh sát biển Việt Nam được hoạt động ngoài vùng biển Việt Nam.”

Đây là điểm mới về phạm vi hoạt động của Cảnh sát biển Việt Nam quy định trong Luật là hoạt động ngoài vùng biển Việt Nam.

Cụm từ “ngoài vùng biển Việt Nam” có thể được hiểu bao gồm: các địa bàn liên quan và vùng biển ngoài vùng biển Việt Nam (đất liền, vùng biển quốc tế).

Điều 12 Luật Cảnh sát biển Việt Nam quy định rõ bảy biện pháp công tác Cảnh sát biển gồm: vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học-kỹ thuật, nghiệp vụ, vũ trang để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn trên biển theo quy định của pháp luật; Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam quyết định việc sử dụng các biện pháp công tác Cảnh sát biển, chịu trách nhiệm trước pháp luật và cấp trên về quyết định của mình.

Quy định tại Điều 12 Luật Cảnh sát biển Việt Nam tạo cơ sở pháp lý để Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; thể hiện đúng vị trí, vai trò là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng cốt thực thi pháp luật trên biển.

Đây là quy định mới, rõ ràng hơn so với Pháp lệnh năm 2008; khắc phục được bất cập của hệ thống pháp luật hiện hành đang chưa có quy định về biện pháp công tác Cảnh sát biển.

Bên cạnh đó, Luật Cảnh sát biển Việt Nam cũng quy định rõ ràng hơn về hợp tác quốc tế của Cảnh sát biển Việt Nam, bố cục một mục riêng, gồm ba điều về nguyên tắc, nội dung và hình thức hợp tác quốc tế tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi để Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện trách nhiệm quốc gia ven biển theo quy định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

{keywords}
Luật Cảnh sát biển Việt Nam có hiệu lực thi hành (ngày 1/7/2019), đến nay vừa tròn 1 năm. Đây là đạo luật có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, để Cảnh sát biển Việt Nam nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Cảnh sát biển được quyền truy đuổi tàu thuyền trên biển:

Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện nhiều hoạt động có liên quan tới hạn chế quyền con người, quyền công dân.

Cảnh sát biển Việt Nam đã thường xuyên sử dụng các quyền này để đấu tranh, ngăn chặn những hành vi xâm phạm vùng biển Việt Nam; khai thác thủy sản bất hợp pháp; nghiên cứu, thăm dò dầu khí, khoáng sản; buôn lậu, buôn bán, vận chuyển hàng hóa trái phép; buôn lậu ma túy trên biển; trấn áp cướp biển, cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền.

Vì vậy, để bảo đảm tuân thủ Khoản 2, Điều 14 Hiến pháp năm 2013 về “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật…,” Chương 3, Luật Cảnh sát biển Việt Nam đã có những quy định cụ thể, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thẩm quyền của Cảnh sát biển Việt Nam trong từng hoạt động như tuần tra, kiểm tra, kiểm soát; huy động nhân lực, tàu thuyền, phương tiện dân sự; thực hiện quyền truy đuổi tàu thuyền trên biển; sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; công bố cấp độ an ninh hàng hải…

Trách nhiệm và chế độ, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp cộng tác, hỗ trợ, giúp đỡ Cảnh sát biển Việt Nam:

Xuất phát từ đặc điểm môi trường hoạt động của Cảnh sát biển Việt Nam trên các vùng biển rộng, có điều kiện thời tiết khắc nghiệt, khó khăn nên nhiều trường hợp cần có sự tham gia, phối hợp công tác, hỗ trợ, giúp đỡ của các cơ quan, cá nhân, tổ chức để thực hiện nhiệm vụ.

Vì vậy, Luật Cảnh sát biển Việt Nam đã có những quy định cụ thể để bảo đảm chế độ, chính sách cho tổ chức, cá nhân hỗ trợ Cảnh sát biển Việt Nam cụ thể trong các điều luật.

Như tại Điều 6 quy định “Luật Cảnh sát biển Việt Nam quy định về trách nhiệm và chế độ, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, hỗ trợ, giúp đỡ Cảnh sát biển Việt Nam” và Điều 16 quy định về huy động người, tàu thuyền và phương tiện, thiết bị kỹ thuật dân sự của Cảnh sát biển Việt Nam.

Cảnh sát biển Việt Nam đã triển khai thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam như thế nào?

Để đảm bảo thi hành Luật, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã tổ chức nghiên cứu, triển khai xây dựng hai Nghị định; hai Thông tư và hai Quyết định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm tiến độ, chất lượng theo Kế hoạch soạn thảo của Chính phủ, Bộ Quốc phòng.

Năm ngoái, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đã triển khai xây dựng hồ sơ Đề án tuyên truyền, phổ biến Luật Cảnh sát biển Việt Nam giai đoạn 2019-2022.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký ban hành Quyết định thành lập Tổ soạn thảo Đề án để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và triển khai thực hiện vào tháng 6/2019.

Nội dung cơ bản của Đề án là tập trung vào tuyên truyền, phổ biến Luật Cảnh sát biển Việt Nam cho cán bộ, chiến sĩ, nhân viên các bộ, ban, ngành, đảm bảo mọi người đều được tuyên truyền, nắm được những nội dung cơ bản của Luật Cảnh sát biển Việt Nam.

Hiện nay, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển đang xây dựng Kế hoạch triển khai xây dựng Đề án kế hoạch củng cố, sắp xếp, cơ cấu lại Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ Cảnh sát biển Việt Nam theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ Quốc phòng.

Dự kiến Quý 3 năm 2020 sẽ báo cáo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Đề án và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án.

Năm 2025 sẽ hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, cơ cấu lại Trung tâm Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ Cảnh sát biển Việt Nam thành cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chủ động phục vụ nhu cầu phát triển của Cảnh sát biển Việt Nam.

Lê Thanh Hùng
Ảnh: Đắc Vịnh