Gia đình tôi có người vừa qua đời vì mắc căn bệnh ung thư đại trực tràng, tôi nghe nói bệnh có thể di truyền. Liệu điều đó có chính xác? (Trần Thị Lan, Nam Định)

Bác sĩ Bùi Quang Lộc, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai, (Hà Nội) tư vấn:

Bình thường tế bào nhân lên bình thường có sự kiểm soát của gene. Khi gene đột biến tế bào nhân lên bất thường, nhân lên vô hạn độ, người ta gọi là ung thư và có thể xâm lấn và di căn tới cơ quan khác. 

Mỗi năm, Việt Nam có 180.000 ca mắc mới ung thư và hơn 16.000 ca là ung thư đại trực tràng, xếp thứ 5 trong tổng số các bệnh ung thư hay gặp ở Việt Nam. 

Ung thư đại trực tràng xuất phát từ manh tràng tới hết trực tràng. Trong lòng đại trực tràng có các tế bào khác nhau hình thành ung thư khác nhau. Tuy nhiên, trên 95% ca mắc ung thư đại trực tràng xuất hiện trên niêm mạc hay còn gọi ung thư biểu mô tuyến. 

ung thu dai trang.png
Bác sĩ nội soi cho người bệnh tầm soát sớm ung thư tiêu hóa. Ảnh: BVCC.

Yếu tố nguy cơ ung thư đại trực tràng

Ung thư đại trực tràng tăng cao gắn với tuổi tác. Tuổi càng cao nguy cơ càng lớn. Ở một số nước phát triển, người từ trên 50 tuổi phải sàng lọc ung thư đại trực tràng. Những người bị viêm đại tràng mãn tính có chảy máu, bệnh crohn ruột, polyp (có kích thước trên 2cm) dễ mắc ung thư đại trực tràng hơn, cần có chiến lược theo dõi và xử lý sớm.

Ung thư đại trực tràng có yếu tố di truyền, chiếm khoảng 10-15%. Đa số người mắc thừa hưởng gene này từ cha mẹ. Tuy nhiên, khoảng 25-30% ca bệnh là do sự đột biến gene xảy ra tự phát.

Các nhà nghiên cứu thấy rằng người bị polyp đại tràng tuyến sẽ mắc ung thư trước tuổi 40. Vì vậy, người có nhiều polyp kèm theo các vết sắc tố ở niêm mạc miệng, da cần theo dõi và phát hiện bệnh sớm nhất có thể. 

Ung thư đại trực tràng còn gắn chặt với lối sống hàng ngày. Các nghiên cứu chỉ ra rằng những người có chế độ ăn nhiều đạm, mỡ thực vật làm tăng dịch tiết của mật, làm thay đổi hệ vi khuẩn đường ruột, tăng nguy cơ tổn thương niêm mạc đại trực tràng khiến tế bào niêm mạc có thể thay đổ sang ác tính.

Chế độ ăn ít chất xơ, trái cây làm giảm khối lượng phân và phân tồn tại trong ruột quá lâu (2-3 ngày/lần) làm ứ đọng vi khuẩn không tốt trong lòng ruột dẫn tới niêm mạc tổn thương.

Chế độ ăn thiếu vitamin A, B, C, D, canxi làm cho bệnh lý ung thư đại trực tràng tăng hơn nhiều. Lối sống tĩnh tại nhất là người làm việc ở văn phòng, ít vận động đi lại làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng.

Triệu chứng ung thư đại trực tràng rất mơ hồ, vay mượn các dấu hiệu tiêu hóa khác. Ví dụ, rối loạn nhu động ruột như táo bón, tiêu chảy, đi ngoài ra máu. Một thay đổi rõ ràng của ung thư đại trực tràng là thay đổi khuôn phân (dẹt, nhầy). Nhiều trường hợp nặng đau bụng, tắc ruột, viêm phúc mạc, sụt cân, mệt mỏi. 

Khi có dấu hiệu trên, người bệnh nên nhanh chóng tới các cơ sở y tế để được thăm khám. Để chẩn đoán chính xác, bác sĩ sẽ thực hiện nội soi ống mềm đại trực tràng. Nếu có bất thường trong lòng đại trực tràng, bác sĩ thực hiện bấm sinh thiết ngay trong quá trình nội soi. Nếu kết quả giải phẫu bệnh là ung thư, các bác sĩ chuyên khoa sẽ lên phác đồ điều trị cho từng trường hợp cụ thể.