{keywords}

Tuần Việt Nam trao đổi với ông Jacques Morisset - chuyên gia kinh tế trưởng và quản lý Chương trình kinh tế vĩ mô, thương mại và đầu tư, Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam. 

{keywords}

Ông nhìn nhận thế nào về kết quả hoạt động kinh tế năm 2021?

GDP năm nay của các quốc gia trên thế giới đều được dự báo tăng trưởng trung bình 5-6%, trong khi đó GDP Việt Nam chỉ tăng trưởng khoảng 2%. Nếu là những năm trước đây tình thế sẽ ngược lại, thế giới sẽ chỉ tăng trưởng 2% trong khi Việt Nam 6-7%. Rõ ràng 2021 là một năm sóng gió đối với Việt Nam.

Từ tháng 6 tới tháng 9, GDP đã giảm tới 6,2%. Đây là con số cao nhất kể từ khi chúng ta có tài khoản quốc gia, tức là mức cao kỷ lục trong 15 năm qua. Điều này có nghĩa nhiều người dân đã bị mất việc làm.

Theo thống kê chính thức của Chính phủ, có tới 60% người dân đã chịu ảnh hưởng của đại dịch, mất việc làm hoặc giảm thu nhập trong quý 3. Đây có thể nói là một cú sốc lớn. Nguồn cơn là do làn sóng thứ 4 của đại dịch Covid bắt đầu từ cuối tháng 4 buộc Chính phủ phải đóng cửa nền kinh tế, người dân và các DN không thể hoạt động, từ đó dẫn tới những tác động tiêu cực lên kinh tế.

Theo ông, khu vực nào đã hỗ trợ tích cực nhất cho nền kinh tế và khu vực nào bị ảnh hưởng nhiều nhất?

Có thể chia năm 2021 thành 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên từ tháng 1 tới tháng 4, khi kinh tế vẫn trong giai đoạn hồi phục từ 2020, dịch bệnh được kiểm soát tốt, kinh tế lưu thông.

Lĩnh vực sản xuất hoạt động sôi nổi, các cửa hàng được mở cửa và có thể thấy tín hiệu tích cực tăng dần qua thời gian, GDP tăng khoảng 5%.

{keywords}

Giai đoạn thứ hai là khi làn sóng đại dịch thứ 4 ập đến vào cuối tháng 4, nền kinh tế phải đóng cửa cho tới cuối tháng 9. Kết quả là GDP giảm sâu như đã nói ở trên, đặc biệt khu vực dịch vụ ghi nhận mức sụt giảm nghiêm trọng nhất vì các cửa hàng lại đóng cửa, người dân bị hạn chế đi lại, giao thông bị ảnh hưởng, các trường học cũng đóng.

Tất nhiên, một số lĩnh vực đặc biệt như truyền thông vẫn tiếp tục phát triển nhưng toàn bộ khu vực dịch vụ vẫn bị ảnh hưởng nặng nề. Rất nhiều khu công nghiệp phía Nam bị ảnh hưởng bởi đại dịch, nhiều nơi phải đóng cửa hoặc không thể hoạt động hết công suất, bởi vậy lĩnh vực sản xuất cũng sụt giảm mạnh.

Giai đoạn thứ 3 là từ cuối tháng 9 cho tới nay, nền kinh tế bắt đầu ghi nhận một số tín hiệu phục hồi nhưng tốc độ phục hồi không đồng đều. Các ngành cung cấp và ngành sản xuất tăng trưởng nhanh đến bất ngờ. Ví dụ, tháng 11 lĩnh vực sản xuất tăng trưởng ở mức cao hơn cùng kỳ năm 2020, xuất khẩu cũng tương tự.

Như vậy, một mặt phía cung đang ghi nhận sự hồi phục nhưng mặt khác, phía cầu, lĩnh vực bán lẻ và nhu cầu về dịch vụ đang ở mức rất thấp. Cụ thể trong tháng 11, nhu cầu về các mặt hàng bán lẻ thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm ngoái. 

{keywords}
{keywords}

Vậy ông đề xuất những chính sách hay khuyến nghị nào cho Chính phủ Việt Nam để đẩy nhanh tiến trình phục hồi này và đẩy mạnh tăng trưởng cho thời gian tới?

Nếu có thể kiểm soát tốt đại dịch, Việt Nam sẽ có thể tiếp tục tiến trình phục hồi kinh tế. Đó là yếu tố tiên quyết. Có thể thấy Chính phủ đang làm hết sức có thể và cũng đang làm rất tốt với tỉ lệ tiêm vắc xin tăng nhanh những tháng vừa qua.

Nhưng chúng ta cũng khó có thể kiểm soát được hoàn toàn. Các quốc gia đều bị ảnh hưởng bởi đại dịch và tới đây có thể là các biến thể mới, bởi vậy bước đầu tiên là cần làm tất cả những gì có thể để kiểm soát đại dịch.

Nội dung thứ hai là chuyện cung - cầu. Theo tôi, Việt Nam đã triển khai rất hiệu quả việc khôi phục các khu vực sản xuất, tất nhiên không phải toàn bộ công nhân đã quay lại nhà máy và vẫn còn những hạn chế trên thị trường lao động nhưng có thể thấy khả năng khôi phục ấn tượng.

Bên cạnh đó, các lĩnh vực như xuất khẩu và sản xuất đang tăng trưởng mạnh mẽ trở lại, thậm chí còn hơn cả năm 2020. Do đó có thể nói phía cung có những tín hiệu tích cực, tuy nhiên vấn đề nằm ở phía cầu.

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế khi GDP giảm tới 6% trong quý 3, nhiều người dân mất việc làm, bị giảm thu nhập và đã cạn sạch tiền tiết kiệm, họ không thể tiêu dùng hay mua sắm hàng hóa. Bên cạnh đó, giờ đây họ cũng lo lắng hơn về tương lai, kết quả là họ sẽ giữ tiền và chờ đợi. Đó là lý do vì sao phía cầu không đạt được mức như cùng kỳ năm ngoái. Vậy giải pháp là gì?

Rõ ràng cần triển khai các biện pháp kích cầu và Chính phủ cũng đang xem xét các biện pháp triển khai mạnh mẽ hơn, ví dụ ban hành các gói tài khóa mạnh mẽ hơn như nhiều quốc gia khác đã thực hiện. Tin tốt là việc triển khai gói tài khóa này hoàn toàn khả thi vì Việt Nam vẫn còn dư địa tài khóa, cụ thể tỉ lệ nợ công mới chỉ ở mức 44% trong khi trần nợ công được Quốc hội thông qua ở mức hơn 60%, như vậy vẫn còn dư địa để vay vốn.

{keywords}

Ngoài ra, dù không đẩy mạnh vay vốn thì Việt Nam cũng có thể tăng chi ngân sách vì dự trữ tiền mặt của Chính phủ vẫn ở mức cao. Câu hỏi ở đây là khoản dự trữ tiền mặt này nên được phân bổ như thế nào? Câu trả lời là hãy khởi động lại các chương trình đầu tư công như đã triển khai trong năm 2020 và hỗ trợ cho những người dân bị mất việc làm, giảm thu nhập hay đã cạn sạch tiết kiệm do đại dịch. Đó là một giải pháp.

Bên cạnh đó, nếu Chính phủ không muốn chi ngân sách thì có thể thực hiện giảm thuế và giảm phần đóng góp của người dân để họ có tiền chi tiêu. Tóm lại, chi ngân sách nhiều hơn, giảm các khoản đóng góp và hào phóng hơn với người dân. 

Quốc hội sẽ có kỳ họp bất thường tuần tới để thông qua một gói hỗ trợ tương tự như gói hỗ trợ ông đã nêu nhằm kích cầu tiêu dùng. Vậy với chính sách đó và những xu hướng hiện nay, liệu trong năm 2022, Việt Nam có thể một lần nữa vùng lên mạnh mẽ như con hổ châu Á được không?

Tôi tin rằng Việt Nam sẽ lại một lần nữa vươn lên mạnh mẽ như con hổ châu Á. Trước tiên đã có những tín hiệu tăng trưởng tích cực từ cuối năm 2021 và Chính phủ sẽ tiếp tục nỗ lực hơn nữa.

Việt Nam vẫn đang có những thế mạnh và tiềm năng vốn có từ trước đại dịch, thậm chí tôi có thể nói rằng đại dịch phần nào giúp Việt Nam đẩy nhanh tiến trình cải cách một số nội dung để có thể trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2045.

Đáng lẽ cần thúc đẩy kinh tế số hơn nữa nhưng chính đại dịch đã giúp đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số kinh tế và đó là dấu hiệu tốt cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, chúng ta cũng ghi nhận nhiều cải cách hoặc tư duy về cải cách trong lĩnh vực quản lý đầu tư công, phát triển kinh tế và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Cam kết của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại hội nghị COP26 đã cho thấy quyết tâm của Việt Nam trong việc đẩy nhanh tiến trình thực hiện cho nội dung quan trọng này và theo tôi, đại dịch là một phần lý do cho kết quả này. 

{keywords}

Tại kỳ họp Quốc hội mới đây, các nhiệm vụ cho năm 2022 đã được đề ra, trong đó tăng trưởng GDP phải đạt mức 6-6,5%. Theo ông, mục tiêu này có khả thi không? Liệu bức tranh kinh tế 2022 sẽ ra sao?

Theo tôi, nhiệm vụ này hoàn toàn khả thi. Có thể dự báo Việt Nam sẽ quay lại quỹ đạo tăng trưởng của thời kỳ trước đại dịch, nhưng với điều kiện Việt Nam và cả thế giới sẽ không phải trải qua một cuộc khủng hoảng vì đại dịch nào nữa. Tất nhiên, là một nhà kinh tế, tôi không thể dám chắc về điều đó. Đó là điều kiện đầu tiên.

Thứ hai, tôi hy vọng Chính phủ sẽ triển khai kích cầu nền kinh tế thông qua những chính sách tôi đã nêu ở trên về việc chi ngân sách và chính sách thuế. Nếu thực hiện được các nội dung này, tôi tin rằng Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh mẽ trở lại như trước đây, thậm chí có thể mạnh mẽ hơn nữa.

Do đó, tôi lạc quan về triển vọng kinh tế Việt Nam, tất nhiên với hai điều kiện tôi đã nói ở trên, một là Chính phủ kiểm soát tốt chính sách tài khóa, hai là nền kinh tế không bị đóng cửa trở lại vì Covid. 

Tình hình dịch bệnh vẫn còn nhiều bất trắc và đã có nhiều lo ngại về vấn đề lạm phát. Vậy đâu là những rủi ro cho bức tranh kinh tế năm 2022? 

Theo tôi, rủi ro lớn nhất là dịch bệnh. Chúng ta chưa thể biết được biến thể Omicron sẽ gây ra những tác động như thế nào và biết đâu có thể sẽ có những làn sóng dịch bệnh lớn hơn trong những năm tới.

Bên cạnh đó, dù tình hình dịch bệnh được kiểm soát thì không thể phủ nhận sẽ tồn tại những rủi ro về kinh tế. Việt Nam là một nền kinh tế mở cửa, do đó sẽ phụ thuộc vào tình hình của nhiều quốc gia trên thế giới.

{keywords}

IMF hay WB đã hạ dự báo tăng trưởng của Mỹ và châu Âu, và sự trầm lắng của kinh tế thế giới cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế Việt Nam bởi xuất khẩu sẽ sụt giảm. Đó là một trong những rủi ro, mặc dù kinh tế xuất khẩu của Việt Nam đã được chứng minh là có khả năng hồi phục nhanh trước những cú sốc.

Một rủi ro nữa là vấn đề lạm phát, nhưng hầu hết là lạm phát nhập khẩu, ví dụ giá dầu tăng cao và ảnh hưởng đối với lưu chuyển hàng hóa. Có thể thấy tất cả những điều đó được phản ánh qua tỉ lệ lạm phát là sự kết hợp của 2 yếu tố: giá cả hàng hóa nhập khẩu tăng cao, trong khi giá hàng hóa trong nước vẫn không tăng do cầu vẫn thấp hơn cung.

Cũng có thể sẽ có sự cộng hưởng giữa việc tăng giá các hàng hóa quan trọng và việc tăng giá hàng hóa trong nước, từ đó dẫn tới lạm phát tăng cao, đòi hỏi các cơ quan chức năng phải kiểm soát lạm phát thận trọng hơn so với 2 năm qua.

{keywords}

Theo ông, đâu sẽ là những cơ hội cho năm 2022?

Vẫn còn đó những cơ hội mà Việt Nam vốn có từ trước tới nay và Việt Nam vốn rất giỏi trong việc nắm bắt các cơ hội. Cơ hội đầu tiên là trong lĩnh vực xuất khẩu. Xuất khẩu chủ yếu phụ thuộc vào các quốc gia trên thế giới, vào vốn FDI vì 80% DN xuất khẩu tại Việt Nam đều là DN có vốn FDI.

Đại dịch Covid cho thấy chúng ta cần đa dạng hóa chuỗi cung ứng và Việt Nam là một trong những ứng cử viên sáng giá cho việc này, do đó nhiều DN lớn đã chuyển tới Việt Nam với mục tiêu đa dạng hóa chuỗi cung ứng nhằm đảm bảo hoạt động xuất khẩu cho nhiều quốc gia khác.

Đó là cơ hội thứ nhất, tôi cho rằng Việt Nam sẽ tiếp tục tận dụng được lợi thế cạnh tranh của mình. Bên cạnh đó, tôi cũng cho rằng Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ kinh tế xanh, kinh tế ứng phó với biến đổi khí hậu.

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu, chẳng cần đi đâu xa, ngay ở Hà Nội cũng ghi nhận tình trạng ô nhiễm đáng báo động, hay đồng bằng sông Cửu Long cũng chịu tác động từ việc mực nước biển dâng cao. Do đó có thể nói Việt Nam là một trong những nạn nhân của biến đổi khí hậu, nhưng cũng có thể tận dụng chính cơ hội này.

Chẳng hạn năm 2020, Chính phủ đã triển khai trợ giá cho năng lượng mặt trời, hỗ trợ các DN đầu tư vào năng lượng mặt trời, và khu vực tư nhân cũng phản hồi rất tích cực. Tổng mức đầu tư của trong 8 tháng năm 2020 vào điện mặt trời cao hơn tổng mức đầu tư của toàn bộ các quốc gia ASEAN hay toàn bộ châu Phi.

Đó là một ví dụ cho thấy Việt Nam có tiềm năng về phát triển năng lượng sạch bởi Việt Nam có thể nhân rộng kịch bản đã thực hiện với năng lượng mặt trời cho năng lượng gió, pin và các sản phẩm xanh khác. Điều này cho thấy sự năng động của khu vực tư nhân và đây là một thế mạnh của nền kinh tế.

{keywords}

Như ông đã chia sẻ, FDI và lĩnh vực xuất khẩu sẽ tiếp tục là những động lực tăng trưởng cho Việt Nam trong giai đoạn tới. Ngoài ra, còn có những lĩnh vực nào cũng sẽ đóng vai trò quan trọng cho việc phát triển kinh tế?

Như tôi đã nói, trong ngắn hạn, các lĩnh vực đóng vai trò quan trọng sẽ vẫn là xuất khẩu và chuyển đổi sang kinh tế xanh.

Trong trung hạn, một yếu tố đã từng xuất hiện từ trước đại dịch chính là nhu cầu trong nước, khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao hơn, với tầng lớp trung lưu ngày càng lớn mạnh.

Tôi tin rằng đây sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế, đó là sự chuyển dịch từ nhu cầu nước ngoài sang nhu cầu trong nước và sự gia tăng của tầng lớp trung lưu sẽ tiếp tục kích thích sự tăng trưởng về cả cung và cầu. Đó sẽ là yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng.

{keywords}
{keywords}

Ông từng cho rằng, cần cân bằng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để kích thích tăng trưởng, hỗ trợ phục hồi kinh tế trong giai đoạn tới. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn làm thế nào để cân bằng giữa 2 chính sách này? 

Rõ ràng chúng ta đang ở trong thời kỳ khủng hoảng do Covid, do đó cần hỗ trợ người dân và các DN bị ảnh hưởng.

Đối với Chính phủ, để ổn định kinh tế, có 2 công cụ hỗ trợ đắc lực trong ngắn hạn là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Như đa phần các quốc gia khác, Việt Nam đã áp dụng chính sách tiền tệ, cụ thể đã sử dụng các công cụ chính sách để khuyến khích hoạt động ngân hàng, giảm lãi suất, giảm chi phí vốn vay và mở rộng tín dụng cho người dân và doanh nghiệp. Việt Nam đã và đang triển khai chính sách này trong 2 năm qua. Đây là hướng đi đúng đắn.

Tất nhiên chính sách hỗ trợ này chưa đồng đều vì nó chỉ nhắm tới các hoạt động kinh doanh có liên quan tới ngân hàng mà như chúng ta đã biết, ở Việt Nam có ít nhất 50% các hoạt động kinh doanh ngoài ngân hàng.

Bởi vậy, có thể nói đây là sự hỗ trợ cho dù phần thiên vị và hỗ trợ một phần cho nền kinh tế nhưng rất quan trọng. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ cũng có những rủi ro bởi vì có thể tiền sẽ chảy vào túi những DN phá sản, đó là kịch bản xấu nhất, hay một kịch bản khác là các DN không thể trả tiền vay ngân hàng, như vậy vấn đề chỉ chuyển từ DN sang ngân hàng.

Đó là một rủi ro lớn và bắt đầu có những lo ngại rằng những rủi ro này ngày càng lớn hơn, nhất là khi Việt Nam đã triển khai chính sách tiền tệ này được 2 năm. Chúng tôi cho rằng Việt Nam cần thận trọng hơn đối với chính sách tiền tệ đã triển khai trong vòng 2 năm qua, không có nghĩa rằng nên ngừng chính sách tiền tệ mà cần thận trọng hơn, có thể là minh bạch hơn về tình hình hoạt động của các ngân hàng và DN hoặc của những người vay vốn trong hệ thống tài chính.

{keywords}

Bên cạnh đó, vấn đề về lạm phát có thể quay trở lại, không chỉ ở Việt Nam mà ở tất cả các quốc gia khác, bởi vậy Ngân hàng Nhà nước cần thận trọng hơn so với thời gian đầu năm 2020.

Mặt khác, hãy nói về chính sách tài khóa, là việc bơm tiền vào nền kinh tế, có thể thông qua đầu tư cho các dự án, tạo công ăn việc làm, mua bán nguyên vật liệu, hỗ trợ cho các tổ chức nhà nước để tiêu dùng và đưa vào nền kinh tế hoặc hỗ trợ tiền mặt cho người dân để kích cầu tiêu dùng.

Việt Nam đã triển khai tất cả các hoạt động này, trong năm 2020 đã bơm tiền vào các hoạt động đầu tư, hỗ trợ tiền cho người dân nhưng việc thực hiện còn khá rụt rè trong năm 2020 và rụt rè hơn nữa trong năm 2021.

Theo như Bộ Tài chính chia sẻ với chúng tôi, ngân sách dự kiến chi 4% GDP để hỗ trợ DN và người dân, đó là con số trên giấy tờ, tiến độ thực hiện thực tế đạt 60% và trên thực tế mới giải ngân được 2,8%. Như vậy có thể thấy tỉ lệ thực hiện giảm từ 4% xuống còn 2,8%, và trong 2,8% này có tới 1,6% dành cho việc gia hạn thời gian nộp thuế, cụ thể cho phép DN nộp thuế chậm 3-6 tháng.

Tất nhiên đó là một khoản hỗ trợ nhưng vẫn còn ở mức khá khiêm tốn, nhất là so với nhiều quốc gia khác, hay ngay cả ở châu Á như Nhật Bản, Malaysia... Bên cạnh đó, Chính phủ vẫn còn tiền và chính sách tài khóa có thể là một công cụ rất hiệu quả. Tuy nhiên cũng không nên sử dụng công cụ này mãi, hãy chỉ sử dụng nó khi cần để kích thích tăng trưởng kinh tế và để quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng đã có từ trước đại dịch. 

{keywords}

Ông có thể nói rõ hơn về những thay đổi hay chuyển đổi kinh tế số tại Việt nam và đâu là những triển vọng cho những năm tới? 

Nếu bạn đặt ra câu hỏi này vào 2 năm trước, khi tôi mới tới Việt Nam, tôi sẽ nói rằng Việt Nam đang tụt lại phía sau, không chỉ so với những quốc gia hàng đầu về chuyển đổi số như Hàn Quốc, Malaysia, Singapore mà thậm chí so với cả một số quốc gia châu Phi như Kenya, Tanzania.

Nhưng giờ đây câu trả lời của tôi đã thay đổi, và lý do chủ yếu là vì những tác động của đại dịch. Sự năng động của khu vực tư nhân hết sức ấn tượng. Khi người dân không thể di chuyển, hàng hóa hạn chế lưu thông, cần thúc đẩy các hoạt động kinh tế không tiếp xúc và khu vực tư nhân đã hỗ trợ rất lớn trong nội dung này. WB cũng đã hỗ trợ một số hoạt động như vậy.

{keywords}

Có thể thấy hiện nay 60-70% DN, bất kể lớn hay nhỏ, đã đều thực hiện chuyển đổi số. Một thay đổi đóng vai trò quan trọng là việc Việt Nam đang hướng tới triển khai dịch vụ thanh toán di động e-money, ở đây không phải là ngân hàng điện tử vì lĩnh vực này Việt Nam đã tiến xa hơn đáng kể, chẳng hạn nếu anh có tài khoản ngân hàng, anh có thể sử dụng điện thoại thông minh hoặc máy tính bảng để thanh toán, về mặt này có thể nói Việt Nam là một trong những nước đi đầu trên thế giới.

Dịch vụ mobile money cũng là một nội dung thuộc chương trình hỗ trợ chính sách trị giá hơn 200 triệu USD của WB nhằm hỗ trợ Việt Nam phục hồi kinh tế sau đại dịch.

Vâng, WB và Việt Nam đã ký kết khoản hỗ trợ chính sách trị giá 220 triệu USD nhằm hỗ trợ Việt Nam phục hồi kinh tế sau đại dịch, nhưng theo tôi điều quan trọng hơn là các nội dung mà chúng tôi muốn phối hợp để hỗ trợ Chính phủ Việt Nam, một trong số đó chính là phát triển dịch vụ thanh toán di động, thanh toán số.

Bên cạnh đó, chúng tôi cũng hợp tác với Chính phủ Việt Nam trong các nội dung về phát triển toàn diện, về vấn đề giới, để đảm bảo người dân được tham gia vào nền kinh tế, giảm thiểu tác động của đại dịch và tận dụng các cơ hội trong tương lai.

Chúng tôi cũng tập trung vào các nội dung liên quan đến phục hồi xanh để đảm bảo các chương trình và dự án trong tương lai sẽ chú trọng hơn đến vấn đề biến đổi khí hậu và các rủi ro đến từ biến đổi khí hậu. Cá nhân tôi rất lấy làm hãnh diện về khoản hỗ trợ chính sách này. Tôi cũng mong rằng khoản hỗ trợ này sẽ giúp Việt Nam đẩy nhanh tiến trình phục hồi kinh tế và đạt được các mục tiêu đề ra.

{keywords}

Lan Anh 

Thiết kế: Phạm Luyện

Đón năm mới, ngẫm về mô thức tư duy và khả năng học hỏi

Đón năm mới, ngẫm về mô thức tư duy và khả năng học hỏi

Thời điểm kết thúc một năm cũ là dịp để chúng ta suy ngẫm, nhìn lại quá khứ và rút ra những bài học cho tương lai.