- Nữ bệnh nhân 24 tuổi ban đầu phát hiện đau lưng ê ẩm, sau tăng dần. Khi đến bệnh viện khám, bác sĩ phát hiện có khối u ở tuỷ sống, to 6cm.

Ngày 13/3, Ths.BS Nguyễn Đức Liên, phụ trách khoa Ngoại thần kinh, bệnh viện K cơ sở Tân Triều cho biết, nữ bệnh nhân phát hiện đau lưng từ cách đây khoảng 6 tháng. Nghĩ do công việc, tuổi còn trẻ nên chủ quan.

Gần đây bệnh nặng dần, đi lại khó khăn mới đến bệnh viện thăm khám. Kết quả chụp cộng hưởng từ cho thấy bệnh nhân bị khối u tủy sống lưng từ D12 đến L3, kích thước 6cm.

{keywords}
Các bác sĩ thực hiện phẫu thuật qua kính hiển vi giúp bóc tách chính xác khối u

Đây là vị trí u liên quan đến vùng tủy sống và đuôi ngựa với rất nhiều dây thần kinh có chức năng quan trọng như vận động, cảm giác, điều khiển chức năng đại tiện, tiểu tiện.

Sau hội chẩn, các bác sĩ quyết định mổ lấy khối u. Ngoài nhiệm vụ phải bóc tách khối u, kíp mổ còn phải bảo vệ tủy sống và các dây thần kinh thoát ra từ đây.

“Chỉ cần sơ sẩy một chút có thể làm tổn thương cấu trúc tuỷ sống hoặc các dây thần kinh, gây hậu quả nặng nề khiến người bệnh không thể tiểu tiện tự chủ, liệt vận động, hoặc rối loạn cảm giác sau mổ”, BS Liên chia sẻ.

Để phẫu thuật chính xác, các bác sĩ sử dụng phương pháp vi phẫu, dùng kính hiển vi phẫu thuật phóng đại lên nhiều lần và dùng thêm máy hút u siêu âm.

Sau 4 giờ phẫu thuật, các bác sĩ đã lấy toàn bộ khối u, bảo vệ an toàn cấu trúc tủy sống và rễ thần kinh.

{keywords}
Khối u 6cm trên tuỷ sống bệnh nhân

Hiện tại ngày thứ 2 sau mổ, bệnh nhân đã cử động chân bình thường, các chức năng cảm giác và đại tiểu tiện bình thường. Khi có kết quả sinh thiết, các bác sĩ sẽ tiếp tục hội chẩn để đưa ra phác đồ điều trị tiếp theo cho bệnh nhân.

Bệnh dễ bị bỏ qua

BS Liên cho biết, u tủy là khối u có triệu chứng khởi phát khá kín đáo và tiến triển chậm khiến nhiều bệnh nhân thường nghĩ các nguyên nhân thông thường như đau lưng do thoái hoá nên bệnh dễ bị bỏ qua.

Các triệu chứng lâm sàng sớm của u tủy sống gồm đau cột sống, đi lại khó khăn thoáng qua.

Đau là triệu chứng khởi phát thường gặp nhất, tuy nhiên người bệnh thường chỉ chú ý đến triệu chứng đau mà bỏ qua triệu chứng, tê, yếu tay, chân khi chúng còn nhẹ.

Khi u phát triển đủ lớn sẽ gây rac các rối loạn chức năng thần kinh như rối loạn cảm giác, rối loạn vận động, rối loạn cơ tròn (gây tiêu, tiểu khó, táo bón), co cứng cơ, teo cơ và các triệu chứng khác.

Ở giai đoạn nặng, khối u ở tủy cổ có thể sẽ xuất hiện thêm triệu chứng rối loạn hô hấp.

Để chẩn đoán chính xác có bị u nội tủy hay không, bệnh nhân cần đến khám các bác sĩ chuyên khoa thần kinh hoặc chuyên khoa ung bướu thần kinh.

Sau khi thăm khám, các bác sĩ sẽ định khu vùng cột sống tương ứng gây ra triệu chứng, từ đó bệnh nhân sẽ được chụp MRI để xác định có bị u không và u loại gì, tính chất của u ra sao, mối liên quan giữa u và tủy sống giúp xác định chẩn đoán và đánh giá đầy đủ trước mổ cũng như đánh giá sau mổ.

Việc điều trị các khối u nội tủy chủ yếu là phẫu thuật. Với u nội tủy có độ ác tính cao thì sau mổ cho hiệu quả kém, nguy cơ tái phát cao. Tùy từng loại giải phẫu bệnh mà có thể điều trị bổ trợ bằng hóa chất hoặc xạ trị.

Nhưng may mắn là đa số u nội tủy là các u có độ ác tính thấp và việc phẫu thuật lấy u đem lại hiệu quả điều trị rất khả quan.

Để xác định là u có độ ác tính cao hay thấp, bắt buộc phải mổ.

Nếu là loại u ác tính thấp, được chẩn đoán sớm và phẫu thuật kịp thời thì sau mổ tình trạng lâm sàng của người bệnh sẽ dừng lại giống như ở mức trước mổ hoặc tốt hơn, nguy cơ tái phát thấp và chất lượng cuộc sống sau mổ gần như người bình thường.

Thúy Hạnh