- 80% bệnh nhân ung thư vú có thể chữa khỏi nếu ở giai đoạn đầu, nhiều bệnh nhân đến nay vẫn sống tốt sau hàng chục năm.

Mất 10 năm để khởi phát

PGS.TS Phạm Duy Hiển, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện K Trung ương cho biết, dựa vào kích thước khối u, mức độ di căn hạch nách, tình trạng di căn xa hay gần, người ta chia ung thư vú làm 5 giai đoạn: 0, I, II, III và IV.

Giai đoạn 0 là ung thư tại chỗ, chưa có di căn hạch. Giai đoạn càng cao khi u càng to hoặc di căn hạch càng nhiều. Giai đoạn IV là giai đoạn cuối bất kể u to hay nhỏ, hạch di căn nhiều hay ít nhưng đã có di căn xa vào xương, phổi, gan, não... vì thế bệnh nhân cần được làm các xét nghiệm để đánh giá tình trạng toàn thân, gan phổi, não, xương, thận...

{keywords}
Một trường hợp ung thư vú ở thể nặng

Trong đó ung thư vú có thời kỳ "tiền lâm sàng" kéo dài tới 8-10 năm. Đây là thời gian để một tế bào ung thư vú đầu tiên trở thành một khối u có đường kính 1cm (tương đương 1 tỉ tế bào) để có thể sờ thấy. Thời kỳ này thường phải "khám sàng lọc" mới phát hiện được.

Từ 1cm thành khối u có đường kính 2cm cần 4 tháng. Giai đoạn này có thể phát hiện bằng sờ nắn, khám tuyến vú đúng cách.

Từ khối u có đường kính 2cm phát triển thành 4cm cần thời gian ngắn hơn tùy thuộc có bao nhiêu % tế bào ung thư tham gia vào quá trình phân chia (tế bào ung thư nhân đôi theo theo hàm số mũ).

Khi hình thành khối u to ở xung quanh núm vú sẽ kéo tụt núm vú. Khối u xâm lấn ra ngoài da dính vào da làm da thay đổi màu da hoặc hình "sần da cam".

"Ung thư vú thể viêm gây tình trạng sưng, nóng, đỏ, đau một vùng hay toàn bộ tuyến vú. Khi đó tiên lượng đã rất nặng, có thể tử vong trong một vài tháng nếu không được điều trị đúng phương pháp", PGS Hiển chia sẻ.

Ngoài ra rất có thể phát hiện tình trạng chảy dịch núm vú đặc biệt dịch màu hồng hoặc dịch máu. Trong một số trường hợp xuất hiện hạch nách, nhiều trường hợp u nhỏ nhưng hạch nách to gây chèn ép thần kinh, gây đau dọc mặt trong cánh tay lan xuống ngón tay. Có trường hợp sờ thấy hạch dọc mặt trong cánh tay.

Những trường hợp đến muộn khi khối u to xâm lấn da gây vỡ, chảy dịch, máu ra ngoài hoặc di căn xương (gây đau xương vùng di căn), di căn phổi (ho máu, tức ngực)...

Điều trị ung thư vú

PGS.TS Nguyễn Văn Thuấn, Phó giám đốc Bệnh viện K khẳng định: “Ung thư vú hoàn toàn có thể chữa khỏi. Trong đó việc tầm soát và phát hiện sớm ung thư vú có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Càng sớm việc điều trị càng đơn giản, hiệu quả điều trị càng cao, chi phí điều trị càng ít. Đáng tiếc, hầu hết trường hợp ung thư vú đều đã ở giai đoạn muộn mới nhập viện".

Theo PGS Thuấn, nếu được phát hiện ở giai đoạn đầu có thể chữa khỏi bệnh tới hơn 80%, ở giai đoạn 2 tỷ lệ này là 60%, sang giai đoạn 3 khả năng khỏi hẳn thấp và đến giai đoạn 4 thì thường việc điều trị chỉ để kéo dài cuộc sống, giảm bớt các triệu chứng đau đớn.

Ở giai đoạn đầu, PGS Thuấn cho biết đến nay nhiều bệnh nhân vẫn sống tốt 15-20 năm, có người còn lâu hơn nữa.

PGS Hiển cho biết, hiện nay điều trị ung thư vú có thể dựa vào phẫu thuật, xạ trị, thuốc (hoá chất, nội tiết, sinh học). Việc áp dụng 1 hay nhiều phương pháp tuỳ thuộc vào từng giai đoạn và từng trường hợp cụ thể.

+ Phương pháp phẫu thuật: Ở giai đoạn sớm, các nước có thể phẫu thuật cắt 1/4 bảo tồn tuyến vú phối hợp xạ trị tại chỗ, còn ở Việt Nam, tỉ lệ bảo tồn mới chỉ đạt khoảng 10% vì hầu hết khối u to do bệnh nhân nhập viện muộn.

Việc phẫu thuật bảo tồn tuyến vú hiện áp dụng chủ yếu với khối u trên dưới 3cm và không sờ thấy hạch nách.

Một số trường hợp khi bệnh nhân đến viện quá muộn, khối u xâm lấn da gây vỡ, chảy máu, mủ hôi thối hoặc u quá to gây đau đớn mà lại có di căn xa (giai đoạn IV) thì phẫu thuật sạch sẽ chỉ góp phần cải thiện phần nào chất lượng cuộc sống cho người bệnh.

+ Xạ trị và hóa trị: Giai đoạn 0 là giai đoạn duy nhất không cần hoá chất cũng như xạ trị trước và sau mổ.

Tất cả những bệnh nhân mổ lấy u hoặc cắt 1/4 bảo tồn tuyến vú bắt buộc phải điều trị xạ bổ trợ sau mổ.

Khi đã có hạch di căn thì hoá trị là bắt buộc không phụ thuộc vào kích thước khối u.

Nếu u to 4-5cm mà không sờ thấy hạch nách cần bổ trợ hoá chất trước mổ để có thể mổ bảo tồn tuyến vú. Giai đoạn III và IV hoá trị là bắt buộc có thể cả trước và sau mổ.

+ Phương pháp sinh học: Đây là phương pháp thu được những kết quả đáng khích lệ nhất. Những bệnh nhân ung thư vú thể ống xâm nhập trước tuổi mãn kinh có tình trạng thụ thể nội tiết ER và/ hoặc PR (+) nếu hạch nách chưa có di căn, HER-2/Neu (-) sau khi mổ tại chỗ và xạ trị, điều trị nội tiết bằng cắt buồng nội hoặc ngoại khoa rồi dùng nội tiết bậc một hay bậc hai.

Nếu HER-2/Neu (+) phối hợp nội tiết như trên với kháng thể đơn dòng, điều trị trúng đích bằng Trastuzumab (Herceptin).

Nếu cả 3 ER, PR và HER-2/Neu (-) thì phải điều trị hoá chất bổ trợ. Nội tiết và kháng thể đơn dòng được chỉ định khi ER và/ hoặc PR và HER-2/Neu (+).

Nếu đã mãn kinh điều trị nội tiết vẫn cần thiết chỉ khác không phải cắt buồng trứng.

T.Hạnh