Ông bà ta nói: biết người biết ta, trăm trận trăm thắng. Trong lĩnh vực nông nghiệp, suốt gần 40 năm sống trong hòa bình, nông nghiệp đã giúp ổn định xã hội, đưa đất nước Việt Nam đứng vào hàng nhất nhì thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, cao su, tiêu, khoai mì, thủy sản... Nhưng người nông dân làm ra sản phẩm ấy vẫn là tầng lớp có thu nhập thấp và bấp bênh. Cũng là người Đông Nam Á, người Nhật Bản chỉ cần 15 năm, và người Hàn Quốc chỉ cần 25 năm để đạt tới mức an sinh và sung túc cho nông dân. Còn phần lớn nông dân Việt Nam đến nay chỉ có thu nhập từ đủ đến thiếu ăn.

Lại một mùa xuân nữa đang đến, ngày Tết, chạnh nghĩ về người nông dân Việt Nam khi nhìn đến những người nông dân Hàn Quốc, Nhật Bản như đề cập trong phần dẫn nhập. Có nhiều nguyên nhân khiến phần đông nông dân ta chưa giàu. Ở đây, xin thủ bàn đến một số nguyên nhân chủ quan đối với người nông dân khiến cho năng lực cạnh tranh họ thấp.

Lực cản năng lực cạnh tranh

Năng lực cạnh tranh của một người tùy thuộc vào trình độ học vấn chuyên môn. Tôi nhớ một lần đi Đan Mạch nghiên cứu về hợp tác xã Nông nghiệp, tôi viếng thăm một gia đình xã viên. Ông chủ hộ giới thiệu người vợ lớn tuổi và con gái xong, quay qua một thanh niên và giới thiệu "Gia đình tôi hãnh diện có chú rể là một nông dân".

Một cú sốc văn hóa đối với tôi, vì ở Việt Nam, thường chúng ta thường hãnh diện có chàng rể làm bác sĩ, kỹ sư, đâu ai hãnh diện với chàng rể làm nông dân.Hỏi ra mới biết ông cụ lớn tuổi này sắp nghỉ hưu, nếu trong nhà không ai có bằng cấp nông nghiệp để nối nghiệp thì phải giao đất cho người khác. Chú rể này có bằng cấp nông nghiệp có quyền khai thác nông nghiệp trên đất nhà.

Liên tưởng đến Việt Nam phần lớn chỉ có người không học, không có bằng cấp gì thì mới làm ruộng. Ông nông dân Đam Mạch hoặc nông dân Nhật Bản sản xuất theo đúng quy trình kỹ thuật do ngành nông nghiệp khuyến cáo, còn ông nông dân Việt Nam thì làm theo kinh nghiệm lão nông chứ ít theo đúng khuyến cáo, ngoại trừ nông dân có ký hợp dồng sản suất theo "Liên kết bốn nhà".

{keywords}

Nông nghiệp đã giúp ổn định xã hội, đưa đất nước Việt Nam đứng vào hàng nhất nhì thế giới về xuất khẩu gạo

Nông dân Việt Nam sản xuất như thế nên luôn có giá thành rất cao, khó cạnh tranh. Thí dụ trong sản xuất lúa, người sản xuất theo kinh nghiệm lão nông (sạ quá dày, không bón phân lót, bón quá nhiều phân đạm, quyến rũ nhiều sâu bệnh) giá sản phẩm suất xuất 1kg lúa có thể lên tới 3.800 - 4.000 đồng. trong khi người sản xuất theo quy trình GAP trong các hợp đồng " Liên kết bốn nhà" thì giá thành một kg lúa chỉ có 2.300 - 2.500 đồng nhờ bón đúng phân cân đối, và bón lót, cùng sạ thưa, ít sâu bệnh. Hoặc trong ngành đường mía, nông dân Việt Nam trồng 1 tấn mía phải tốn từ 50 -55 đô la mỹ,trong khi đó Thái Lan mất 30 đô la, Úc 20 đô la, Brazil 16 đô la.

Một lý do khác khiến giá thành sản xuất tăng cao là áp dụng kỹ thuật làm trái thiên nhiên. Lấy trường hợp sản xuất lúa. Tại Thái Lan, đại đa số nông dân trồng lúa trúng mùa chất lượng cao, nhưng năng suất chỉ đạt 2,8 - 3,2 tấn/ha. Họ đợi có mưa mới lo cày bừa chuẩn bị cấy lúa. Khi lúa lớn lên, người ta chỉ bón vừa đủ cân đối và cứ để trời mưa nuôi lúa đến khi thu hoạch thì cũng dứt mưa. Họ ít tốn thuốc trừ sâu bệnh và không tốn nước thủy lợi. Còn nông dân Việt Nam dung kỹ thuật mới để tăng 2-3 vụ lúa cao sản, ngắn ngày. Trong mùa khô thì lấy nước thủy lợi vào cày bừa; trong mùa mưa thì bơm nước ra cho cạn ruộng để bừa trục đất. Nông dân bón phân đạm nhiều để thấy màu xanh của cây lúa, nhưng vì thế đồng ruộng quyến rũ nhiều sâu bệnh.

Ở Đồng bằng sông Cửu Long là như thế, còn ở Đồng bằng sông Hồng miền Bắc, trồng lúa càng tốn kém: Quanh năm người nông dân trồng lúa như chiến đấu với bốn "Kẻ thù" là xuân, hạ, thu, đông. Mùa nào cũng phải chống rét hại mạ non mới cấy; mùa hè thì chống hạn, mùa thu thì chống úng, chống bão. Tất cả đều rất tốn kém.

Ngày xưa không làm thế thì không có gạo ăn. Nhưng ngày nay thì ta dư thừa gạo để xuất khẩu, không nhất thiết phải trồng lúa. Từ đó nhà nước đã có chủ trương chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, thay vì trồng lúa, người dân có thể trồng cây khác, hoặc nuôi trồng thủy sản, đạt lợi tức cao hơn, với điều kiện có bộ phận tìm và mở rộng thị trường cho những sản phẩm này. Thí dụ, trong vụ đông ở miền Bắc, thay vì chống cái rét của trời đất thì ta lợi dụng cái rét đó để trồng khoai tây, là cây trồng chỉ tạo củ trong thời tiết lạnh. Với giống khoai tây quốc tế ở Peru, nông dân Thái Bình có thể đạt 30 tấn củ /ha trong khi trồng lúa và chật vật lắm cũng chỉ được 5 tấn/ha. Hoặc ở Vĩnh Long nông dân có thể thay lúa bằng khoai lang 25 tấn củ/ha.

{keywords}

Một lý do khác khiến giá thành sản xuất tăng cao là áp dụng kỹ thuật làm trái thiên nhiên. (Ảnh minh họa)

Tương tự như thế, nông dân Việt Nam trồng đậu nành cũng giá thành cao, trồng bắp cũng cao. Do đó chúng ta đã nhập khẩu đậu nành và bắp rẻ hơn trồng trong nước. Việc hô hào cho nông dân chuyển đất lúa thành đất bắp hoặc đậu nành là phải phục hồi cấu trúc tươi xốp của đất, rất tốn kém. Khó thứ hai là tập quán canh tác của nông dân vẫn bón nhiều phân đạm, quyến rũ sâu bệnh, lại phải tốn tiền mua và phun thuốc.

Ngoài ra, tình trạng đất ruộng manh múm là một lực cản rất lớn cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nông dân Việt Nam. Các nơi sản xuất với giá thành thấp nhất đều là vùng đất liền thửa nhau hàng trăm đến hàng ngàn ha. Do đó, cần những giải pháp để nông dân đưa phần đất manh múm của mình vào vùng quy hoạch cánh đồng lớn.

Cần lắm tiếp thị nông nghiệp!

Tiếp thị đóng vai trò rất lớn trong phát triển nông nghiệp, vừa giúp lực lượng nông dân khắc phục tình trạng thấp kém trong năng lực cạnh tranh, vừa giúp phát huy những thế mạnh tiềm năng.

Trong chinh sách tái cơ cấu nông nghiệp, từ người nông dân đến lãnh đạo địa phương không thể quyết định phải sản xuất hàng hóa gì, theo phương pháp nào.Tất cả đều phải theo tín hiệu của thị trường. Thị trường có thể được tìm ra ở đâu đấy (thí dụ khoai lang cần ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc...) hoặc có thể mở ra tại đâu đấy (thí dụ khoai tây của Nam Mỹ được giới thiệu cho châu Âu và trở thành một món ăn thường ngày của người dân phương Tây; mít sấy của VN được giới thiệu ra 20 nước lân cận, được 20 quốc gia nhập khẩu).

{keywords}

Cần nhiều nông dân có tài kinh doanh để biến một mặt hàng vô danh nhưng có tiềm năng trở thành một mặt hàng ưa dùng, nhất là ở thị trường quốc tế. Một thí dụ rất điển hình mà tôi nhớ là trường hợp cá basa của VN thâm nhập vào thị trường Mỹ một cách thành công và nhanh chóng là nhờ một doanh nhân của Việt Nam (gốc Hoa), anh Ngô Húa.

Đầu năm 1999, anh chị Húa về thăm nhà, được mời ăn canh chua cá basa. Anh Húa phát hiện thịt cá basa ngon hơn thịt cá nheo (đồng loại với cá basa, gọi chung với tên "catfish). Lập tức, anh mua ngay 2 con con-ten-nơ phi lê cá basa đưa sang triển lãm ở Hội chợ Thủy sản quốc tế Boston, Đông Bắc nước Mỹ, vào tháng 3/1999. Anh cho thiết kế tờ rơi giới thiệu đặc tính độc đáo của thịt cá basa, đồng thời mướn sinh viên ngành nấu ăn chế biến cá basa thành những món lạ miệng đãi khách hàng đến thăm triển lãm của công ty H&N.

Tiếp theo, đến tháng 9/1999, Công ty H &N triển lãm cá basa lần nữa trong hội chợ thủy sản quốc tế tại vùng biển miền Tây. Lần này anh Húa mướn ông Gary Puetz, một thợ nấu ăn danh tiếng của Mỹ, trả ông ấy 5.000 đô la để ông ấy biểu diển nấu các món ăn ngon từ cá basa VN mà ông rất thích ăn. Trong dịp này, Công ty nhận được nhiều đơn đặthàng từ các siêu thị, nhà hàng Mỹ. Đây là cách tiếp thị độc đáo, rất tốn kém nhưng nhờ thế, người Mỹ biết danh cá basa, mở ra một kỷ nguyên mới cho ngành nuôi trồng thủy sản nước ngọt VN, nay đã được xuất đi trên 100 quốc gia.

Nông nghiệp của chúng ta còn nhiều mặt hàng triển vọng, có thể xuất khẩu nhưng thiếu người đi tìm hoặc mở thị trường và thiếu doanh nghệp biết tổ chức sản xuất một cách khoa học. Mong sao xuân này có nhà doanh nghiệp đầu năm tổ chức kinh doanh một mặt hàng triển vọng của VN.

GS. Võ Tòng Xuân

(Theo Sài Gòn Tiếp Thị, số Xuân Ất Mùi)