Uy tín của các công ty bảo hiểm được đánh giá khách quan và độc lập, căn cứ theo kết quả đánh giá năng lực tài chính doanh nghiệp; đánh giá uy tín doanh nghiệp trên truyền thông theo phương pháp Media coding; và khảo sát khách hàng, các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) và chuyên gia trong ngành được thực hiện trong tháng 6/2020. Top 10 Công ty bảo hiểm uy tín năm 2020 được công bố theo 02 danh sách: Top 10 Công ty bảo hiểm nhân thọ uy tín và Top 10 Công ty bảo hiểm phi nhân thọ uy tín năm 2020.

Danh sách 1: Top 10 Công ty bảo hiểm nhân thọ uy tín năm 2020

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Top 10 Công ty bảo hiểm uy tín năm 2020, tháng 07/2020

Danh sách 2: Top 10 Công ty bảo hiểm phi nhân thọ uy tín năm 2020

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Top 10 Công ty bảo hiểm uy tín năm 2020, tháng 07/2020

Thông tin chi tiết Top 10 Công ty bảo hiểm uy tín năm 2020, vui lòng truy cập website: https://toptenvietnam.vn/.

Ngành Bảo hiểm năm 2020: Tiếp tục giữ vững đà tăng trưởng

Thị trường bảo hiểm năm vừa qua tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao, ổn định, góp phần thực hiện mục tiêu chung là xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, đảm bảo giữ vững an ninh tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô. Tổng doanh thu phí bảo hiểm ước đạt 160.180 tỷ đồng, tăng 20,54%, trong đó, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ (BHPNT) ước đạt 52.387 tỷ đồng và doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (BHNT) đạt 107.793 tỷ đồng. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã chi trả quyền lợi bảo hiểm ước đạt 44.006 tỷ đồng.

Lý giải cho sự tăng trưởng ổn định của ngành bảo hiểm trong thời gian qua, hầu hết các chuyên gia đều nhận định: Năng lực tài chính, khả năng quản trị điều hành và quản trị rủi ro của các doanh nghiệp bảo hiểm không ngừng được nâng cao; các sản phẩm và chất lượng dịch vụ được tăng cường, ngày càng đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo hiểm; thêm vào đó khung khổ pháp lí trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm tiếp tục được hoàn thiện, đồng bộ hơn…

Những tháng đầu năm 2020, dịch COVID-19 như một “thiên nga đen” làm đảo lộn mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Cũng như nhiều ngành kinh tế khác, khảo sát của Vietnam Report đánh giá tác động của COVID-19 đến DNBH cho thấy dịch bệnh khiến lãnh đạo các DNBH phải xem xét, đánh giá lại mô hình hoạt động, phân phối của họ qua ba khía cạnh: khách hàng, lực lượng bán hàng và hỗ trợ (như đầu tư vào dữ liệu và công cụ kỹ thuật số), điều này giúp cho DNBH có thể chuẩn bị cho những rủi ro không thể đoán trước.

Hình 1: Đánh giá ảnh hưởng của COVID-19 đến việc ra quyết định của DNBH trong một số lĩnh vực

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát các DNBH tại Việt Nam, tháng 6/2020

Cụ thể, hơn một nửa số DNBH cho biết các quyết định liên quan đến Quản trị rủi ro, Quản trị nhân lực, Quản lý dịch vụ và hỗ trợ khách hàng, Tiếp cận khách hàng và Chuyển đổi số đang từng bước thay đổi cùng với sự bùng phát của dịch bệnh. Đặc thù của ngành bảo hiểm là bán “niềm tin” về việc được bảo vệ khi xảy ra rủi ro trong tương lai nên các kênh bán hàng offline hiện vẫn chiếm đa số trong mạng lưới phân phối của các DNBH và là cách thức mà 75% khách hàng tương tác với DNBH (theo khảo sát người tiêu dùng của Vietnam Report). Tuy nhiên, việc giãn cách xã hội đã ảnh hưởng không nhỏ đến các kênh phân phối và tiếp cận khách hàng của DNBH theo hướng: (1) Tăng cường chuyển dịch sang sử dụng các công cụ kỹ thuật số; (2) Hướng tới tự phục vụ đối với các đại lý và khách hàng; (3) Chuyển đổi quy trình từ offline sang online.

Mặc dù vậy, thị trường bảo hiểm Việt Nam được dự báo tiếp tục giữ vững “phong độ” tăng trưởng trên 20% trong năm 2020. Xét trong ngắn hạn, khảo sát các DNBH do Vietnam Report thực hiện tháng 6/2020 chỉ ra có đến 90,5% số doanh nghiệp lạc quan về triển vọng toàn ngành bảo hiểm trong 6 tháng cuối năm 2020.

Hình 2: Triển vọng toàn ngành bảo hiểm 6 tháng cuối năm 2020

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát các DNBH tại Việt Nam, tháng 6/2020

Ngành bảo hiểm trong bối cảnh “bình thường mới”: 3 Cơ hội – 4 Thách thức – 5 Chiến lược

3 Cơ hội

Khảo sát các DNBH do Vietnam Report thực hiện chỉ ra Top 3 cơ hội lớn nhất của ngành bảo hiểm trong thời gian tới bao gồm: (1) Công nghệ phát triển mạnh mẽ, ứng dụng trong tất cả các giai đoạn của chuỗi giá trị bảo hiểm; (2) Nhận thức và hiểu biết của người dân về bảo hiểm ngày càng được cải thiện; và (3) Triển vọng kinh tế vĩ mô phục hồi và bước vào giai đoạn “bình thường mới”.

Hình 3: Top 3 lợi ích lớn nhất mà DNBH được hưởng khi phát triển Insurtech trong bối cảnh “bình thường mới”

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát các DNBH tại Việt Nam, tháng 6/2020

Nhờ sự phát triển của CNTT, DNBH có nhiều kênh phân phối hơn bên cạnh kênh truyền thống là đại lý/tư vấn viên. Các kênh bán hàng online như Ứng dụng di động, Chatbot, mạng xã hội đang dần trở nên phổ biến và tạo được sự thuận lợi trong tương tác với khách hàng. Khảo sát người tiêu dùng của Vietnam Report cho thấy trước khi mua bảo hiểm, 75,7% khách hàng đã sử dụng công cụ kỹ thuật số để đưa ra quyết định mua sản phẩm. Trong bối cảnh dịch bệnh trên thế giới còn diễn biến phức tạp, xu hướng chuyển dịch phân phối bảo hiểm từ offline sang online trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết, thuận tiện cho DNBH và cả khách hàng trong khi vẫn đảm bảo an toàn giãn cách xã hội.

Dịch COVID-19 đã làm thay đổi hành vi tiêu dùng: làm việc tại nhà, đi du lịch bằng máy bay… đặc biệt khiến cho chúng ta quan tâm đến sức khỏe và các vấn đề rủi ro nhiều hơn. Đây được coi là một tín hiệu tích cực của thị trường bảo hiểm. Theo đánh giá của cộng đồng DNBH, đây cũng là một trong 3 cơ hội lớn nhất của ngành trong thời gian tới bên cạnh sự phát triển của công nghệ và triển vọng kinh tế vĩ mô phục hồi.

Hình 4: Top 3 cơ hội của ngành bảo hiểm trong bối cảnh “bình thường mới”

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát các DNBH tại Việt Nam, tháng 6/2020

4 Thách thức

Mặc dù vậy, các DNBH cũng phải đối mặt với khá nhiều thách thức, trong đó nổi bật lên 4 thách thức chính là Cạnh tranh trong ngành càng gia tăng; Rủi ro từ yếu tố thiên tai, thời tiết khắc nghiệt, dịch bệnh; Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, có hiểu biết rõ ràng về thị trường bảo hiểm; Hạ tầng Công nghệ thông tin bất cập.

Hình 5: Top 4 thách thức lớn nhất của các doanh nghiệp trong ngành Bảo hiểm trong bối cảnh “bình thường mới”

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát các DNBH tại Việt Nam, tháng 6/2020

1. Cạnh tranh trong ngành ngày càng gia tăng. Thời gian qua, các DNBH ở cả 2 khối BHPNT lẫn BHNT đều liên tiếp rót thêm vốn điều lệ nhằm đẩy mạnh đầu tư vào tuyển dụng nhân sự, công nghệ và triển khai các dự án mở rộng thị trường, phát triển kênh phân phối, tăng dự phòng rủi ro theo quy định mới cũng như tăng năng lực bồi thường. Đối với BHNT, ngoài doanh nghiệp trong nước là Bảo Việt, có thể thấy cuộc đua thật sự là sân chơi của nhóm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) hoạt động lâu năm ở Việt Nam. Đây là các doanh nghiệp có kinh nghiệm đầu tư ở các thị trường mới nổi, có tiềm lực tài chính mạnh mẽ, am hiểu văn hóa tiêu dùng địa phương và có chiến lược phát triển bền vững. Đối với BHPNT, thị phần Top 5 đang bị thu hẹp, nhường chỗ cho những doanh nghiệp Top dưới.

Hình 6: Thị phần BHPNT giai đoạn 2015-2019

{keywords}
Nguồn: Cục Quản lý Giám sát Bảo hiểm, Bộ Tài chính

Về mặt tích cực, cạnh tranh là cơ sở tạo nên tăng trưởng, đóng góp thêm cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam, đem lại nhiều việc làm hơn và bảo vệ cho nhiều người hơn. Sự cạnh tranh của các công ty khiến cho các sản phẩm bảo hiểm ngày càng đa dạng, phù hợp với nhu cầu thị trường. Tuy nhiên thị trường cũng xuất hiện mặt tiêu cực do cạnh tranh “phi kỹ thuật” như chấp nhận giảm phí để giành thị phần bằng mọi giá cho dù thua lỗ, sự lôi kéo nhân sự từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp kia khi có áp lực doanh số… có thể dẫn đến hệ lụy cho cơ quan quản lý, DNBH và khách hàng.

2.  Rủi ro từ các yếu tố thiên tai, thời tiết khắc nghiệt, dịch bệnh. Dịch COVID-19 chính là minh chứng rõ nhất cho điều này. Đại dịch đã làm thay đổi toàn bộ nền kinh tế toàn cầu, lây nhiễm cho hơn 11 triệu người, và khiến cho hơn 500 nghìn người tử vong, chưa kể đến số lượng người bị thất nghiệp và doanh nghiệp phải đóng cửa do suy thoái kinh tế. Điều này khiến cho cộng đồng doanh nghiệp ý thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của quản trị rủi ro và bảo hiểm. Thay vì “bị động” đối phó với rủi ro, các doanh nghiệp nên tạo ra lợi thế cạnh tranh từ việc chuẩn bị cho rủi ro.

3.  Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, có hiểu biết rõ ràng về thị trường bảo hiểm. Mặc dù bảo hiểm là ngành có tốc độ tăng trưởng cao so với các ngành khác nhưng nhân sự trong ngành đang rơi vào tình trạng “thiếu thầy, thiếu cả thợ”. Thứ nhất, “thầy” ở đây chính là những quản lý cấp cao, những người định hướng thị trường và xây dựng những sản phẩm cá nhân hóa theo nhu cầu của từng người. Trong khảo sát chuyên gia trong ngành do Vietnam Report thực hiện tháng 6/2020, thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay chưa có “thầy”. Các sản phẩm bảo hiểm trên thị trường còn khá đơn giản, chủ yếu là các sản phẩm được “đóng gói” từ hàng chục, thậm chí hàng trăm năm trước đó, việc triển khai các sản phẩm mới theo xu hướng Insurtech mới chỉ trong giai đoạn thử nghiệm. Thêm vào đó, việc thiếu hụt nhân sự liên quan đến chuyển đổi số cũng là một bài toán nan giải đối với các DNBH hiện nay, nằm trong Top 4 khó khăn khi triển khai Insurtech tại Việt Nam theo kết quả khảo sát của Vietnam Report. Thứ hai xét về “thợ”, số lượng các trường đại học, học viện có chuyên ngành đào tạo về bảo hiểm không nhiều và việc đào tạo nghiệp vụ bảo hiểm tại các trường đại học nhìn chung vẫn mang tính lý thuyết. Tỷ trọng sinh viên đúng chuyên ngành bảo hiểm chỉ chiếm khoảng 20-30% so với tổng số sinh viên mới ra trường được tuyển dụng vào doanh nghiệp. Nhìn vào chất lượng đào tạo cũng dễ nhận thấy khoảng cách tương đối lớn giữa kiến thức sinh viên được học ở trường đại học và công việc thực tế khi đi làm. Trước tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành bảo hiểm, nhiều DNBH đã “chữa cháy” bằng cách tuyển dụng nhân sự được học từ các chuyên ngành khác và đào tạo ngắn hạn kiến thức cơ bản về bảo hiểm. Điều này tiềm ẩn rủi ro không chỉ cho doanh nghiệp, mà còn cho thị trường. Bên cạnh đó, như đã phân tích ở trên, thị trường cạnh tranh rất khốc liệt, điều này dẫn tới tình trạng “chảy máu chất xám” từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác, khiến bài toán nhân sự càng trở nên khó khăn đối với các doanh nghiệp trong ngành.

Hình 7: Top 4 khó khăn lớn nhất cản trở DNBH triển khai chuyển đổi số nói chung và Insurtech nói riêng

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát các DNBH tại Việt Nam, tháng 6/2020

4. Hạ tầng CNTT bất cập. Tuy cơ hội từ CMCN 4.0 rất lớn nhưng ở Việt Nam, việc áp dụng công nghệ 4.0 trong ngành bảo hiểm còn chưa được chú trọng, Insurtech vẫn đang trong giai đoạn hình thành sơ khai và chưa đạt được thành tựu đáng kể. Khảo sát của Vietnam Report cho thấy, hầu hết các DNBH Việt Nam đang chú trọng phát triển các ứng dụng công nghệ ở mức độ cơ bản nhất như Xây dựng ứng dụng trên thiết bị thông minh (90,5%), Phân phối sản phẩm qua kênh bán hàng mới: trực tuyến, mạng xã hội (85,7%), công nghệ trả lời khách hàng tự động (chatbot) (42,9%), Triển khai phần mềm lõi bảo hiểm (28,6%), Phân phối sản phẩm qua website so sánh các sản phẩm bảo hiểm (Web aggregator) (23,8%)… Còn những sản phẩm đặc trưng của Insurtech như sản phẩm theo yêu cầu (On-demand insurance) hay mô hình bảo hiểm ngang hàng (peer-to-peer insurance) thì hiện còn khá ít. Nguyên nhân chính là do hạ tầng CNTT còn chưa theo kịp với tốc độ phát triển và nhu cầu của thị trường như rủi ro an ninh mạng… Sức mạnh lớn nhất của Insurtech chính là database, tuy nhiên thông tin thị trường hiện còn bất đối xứng vì thế nếu muốn tận dụng những cơ hội từ CMCN 4.0 buộc ngành bảo hiểm cần đầu tư cơ sở hạ tầng CNTT.  

5 Chiến lược

Cho đến nay, hầu hết các DNBH đều đã chuẩn bị sẵn sàng cho giai đoạn “bình thường mới”. Trong cuộc chiến mới về thị phần bảo hiểm, sự thành công sẽ dành cho những ai tận dụng được sức mạnh của công nghệ, cũng như nắm bắt và chuyển mình tốt nhất với những xu hướng đó. Điều này trở thành ưu tiên chiến lược hàng đầu của DNBH trong bối cảnh “bình thường mới”.

Hình 8: Top 5 chiến lược ưu tiên của DNBH trong bối cảnh “bình thường mới”

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát các DNBH tại Việt Nam, tháng 6/2020

Sau một thời gian phát triển với mô hình đại lý, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam bắt đầu chứng kiến sự hình thành của các kênh phân phối khác như Bancassurance (sự kết hợp giữa bảo hiểm và ngân hàng), Direct Marketing (marketing trực tiếp) hoặc Telemarketing (bán hàng qua điện thoại), Worksite (Bán chéo) …

Hình 9: Các kênh phân phối bảo hiểm phổ biến nhất

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát người tiêu dùng bảo hiểm, tháng 6/2020

Trong số các kênh trên, Bancassurance được dự báo là kênh tiềm năng với sự tăng trưởng mạnh mẽ, bùng nổ trong năm 2019 với những thương vụ hợp tác quy mô lớn và tỷ trọng trong tổng doanh thu tăng vọt. Các chuyên gia tham gia khảo sát của Vietnam Report nhận định xu hướng phát triển bancassurance sẽ ngày càng nóng hơn và thu hút nhiều khoản đầu tư lớn. Thêm nữa, với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ thông tin, việc triển khai bancassurance cần phải được thiết lập dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại và những doanh nghiệp mạnh về công nghệ sẽ có ưu thế trong việc triển khai thành công kênh phân phối này. Tuy nhiên, bancassurance hiện vẫn chưa giải quyết tốt 2 vấn đề, đó là tỷ lệ hủy hợp đồng năm thứ 2 của khách hàng cao do nhân viên ngân hàng bị áp chỉ tiêu, đồng thời mức phí cắt lại cho ngân hàng quá lớn, khiến công ty bảo hiểm không có lời cho các vụ hợp tác này. Các chuyên gia trong ngành cũng cảnh báo, kênh bancassurance tương tự như kênh đại lý, sẽ nhanh chóng cạn dư địa thuận lợi, chỉ còn lượng khách khó khai thác. Khi đó, nếu chất lượng đội ngũ bán hàng không đủ tốt để khai thác sâu sẽ dẫn tới doanh thu khai thác mới đến từ kênh này sẽ sụt giảm.

Bên cạnh đó, hợp tác giữa hai lĩnh vực thương mại điện tử và bảo hiểm giúp đẩy mạnh kênh bán bảo hiểm online, giúp người dùng chủ động tiếp cận sản phẩm, dịch vụ.

Trong bối cảnh “bình thường mới”, các DNBH cần điều chỉnh hệ thống kênh phân phối theo hướng kỹ thuật số dựa trên 3 nhóm hành động sau:

1. Quyết định kết hợp kênh chuyển tiếp tối ưu. Các đại lý trực tiếp sẽ vẫn là một phần quan trọng của hệ thống phân phối trong những năm tới, đặc biệt là với BHNT và các sản phẩm bảo hiểm thương mại lớn. Tuy nhiên các DNBH cần thiết lập thêm kênh bán hàng kỹ thuật số để phục vụ khách hàng thích tương tác từ xa thông qua kỹ thuật số

2. Xác định các sửa đổi cần thiết và các công nghệ mới phục vụ cho giai đoạn “bình thường mới”. Các DNBH cần coi công nghệ và kỹ thuật số là những yếu tố khác biệt cốt lõi tạo nên giá trị doanh nghiệp, từ đó xác định các điều chỉnh mong muốn của họ đối với thực tế công nghệ hiện có.

3. Sẵn sàng để đưa ra các quyết định M&A chiến lược để tăng cường phân phối. Bắt tay với các công ty Fintech và Insurtechs có thể là một hướng đi mới dành các DNBH. Các DNBH nên chủ động xác định các lỗ hổng trong hệ sinh thái phân phối cũng như mối quan hệ với các đối tác M&A tiềm năng để có thể tiếp cận nhóm khách hàng mới và các loại sản phẩm mới.

Xây dựng thương hiệu bảo hiểm trong thời “bình thường mới”

Bài học kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng kinh tế khoảng ba thập kỷ trở lại đây cho thấy rằng, trong những thời kỳ hậu khủng hoảng, những doanh nghiệp nào đáp ứng được một hoặc cả ba điều kiện sau sẽ có nhiều cơ hội phục hồi hoàn toàn và vươn lên mạnh mẽ trong thời kỳ bình thường mới, đó là: (1) Sớm có chuẩn bị chiến lược thoát khỏi khủng hoảng và tái lập hình ảnh; (2) Tiếp tục sử dụng công nghệ để hỗ trợ và tăng năng suất chứ không phải để thay thế con người; (3) Sớm thực hiện chuyển đổi số thích nghi với khủng hoảng ngày một tinh vi hơn và tận dụng tốt sự dịch chuyển trong hành vi tiêu dùng và văn hóa do khủng hoảng tạo ra. Trong đó, việc tái lập hình ảnh – hay uy tín doanh nghiệp được coi là một trong những nhiệm vụ hàng đầu gắn liền với lợi ích kinh tế của chính các doanh nghiệp bởi lẽ, uy tín là một trong những tài sản vô hình quý giá của mỗi doanh nghiệp, có ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh của doanh nghiệp trong công chúng cũng như quyết định của nhà đầu tư và các bên liên quan.

Thống kê dữ liệu truyền thông cho thấy, các doanh nghiệp bảo hiểm hiện nay thường lựa chọn các hình thức quảng bá thương hiệu “ăn sổi” theo cách tiếp cận trực tiếp khách hàng thay vì một chiến lược xây dựng hình ảnh và uy tín thương hiệu lâu dài. Sơ bộ, trên các trang thông tin, tài chính có nhiều độc giả truy cập hàng ngày nhất, số lượng bài báo về ngành bảo hiểm ít hơn rất nhiều so với các ngành khác thuộc lĩnh vực tài chính, với sự hiện diện của chỉ khoảng 70% số doanh nghiệp trong ngành bảo hiểm (trong đó chủ yếu là BHNT với 83,3% số DN, BHPNT xuất hiện ít hơn với 62,1%). Mặc dù tỷ lệ này đã cải thiện đáng kể so với mức 50% của năm ngoái những vẫn còn rất thấp nếu so sánh với các ngành khác trong lĩnh vực tài chính như ngân hàng, chứng khoán… Với xu thế và thói quen sử dụng internet đang thay đổi như hiện nay, có thể thấy DNBH đang bỏ lỡ một cơ hội tốt để đưa tên tuổi của mình trở nên quen thuộc hơn trong mắt người dân.

Hình 10: Tỷ lệ DNBH đạt ngưỡng hiện diện trên truyền thông (%)

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Dữ liệu Media coding ngành Bảo hiểm tại Việt Nam từ tháng 6/2019 đến tháng 5/2020

Đối với các doanh nghiệp đã có sự hiện diện trên truyền thông, việc đa dạng hóa thông tin sẽ giúp hình ảnh của doanh nghiệp “thân thiện” và cởi mở hơn. Hiện nay đa phần thông tin về DNBH chỉ xoay quanh các chủ đề: Sản phẩm (21,6%), Tài chính, kết quả kinh doanh (15,4%) và Chiến lược kinh doanh, M&A (10,8%). Cơ cấu thông tin về các chủ đề khác (trong tổng số 24 nhóm chủ đề bao phủ) không nhiều, đều chiếm tỷ lệ dưới 10%.

Hình 11: Top 4 nhóm chủ đề xuất hiện nhiều trên truyền thông

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Dữ liệu Media coding ngành Bảo hiểm tại Việt Nam từ tháng 6/2019 đến tháng 5/2020

Từ góc độ người tiêu dùng, Top 5 lý do khách hàng lựa chọn thương hiệu DNBH có sự khác biệt không lớn giữa BHNT và BHPNT, tập trung vào Mạng lưới phân phối; Tiềm lực tài chính; Các chương trình chăm sóc khách hàng; Mức phí; Quy trình thủ tục bồi thường và Giới thiệu của bạn bè/người thân.

Hình 12: Top 5 lý do khách hàng lựa chọn thương hiệu bảo hiểm

{keywords}
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát người tiêu dùng bảo hiểm, tháng 6/2020

Nhìn chung, ngành bảo hiểm tại Việt Nam có nhiều cơ hội tăng trưởng. Những hỗ trợ về chính sách của Bộ Tài chính được đánh giá tích cực và kịp thời. Việc tăng trưởng ra sao chỉ còn là vấn đề nội tại của doanh nghiệp. Để tận dụng tốt cơ hội, DNBH cần có sự thay đổi từ tư duy chiến lược đến hành động, nên ưu tiên đầu tư CNTT, xây dựng thương hiệu thân thiện hơn, thay vì tập trung vào tìm kiếm và mở rộng khách hàng mà thiếu đi sự chọn lọc… nhờ đó nhận thức và ý thức của người dân về bảo hiểm sẽ dần thay đổi theo chiều hướng tích cực.

Bảng xếp hạng Top 10 Công ty bảo hiểm uy tín năm 2020 là kết quả nghiên cứu độc lập và khách quan của Vietnam Report được công bố thường niên từ năm 2016, dựa trên phương pháp Media Coding (mã hóa dữ liệu báo chí) trên truyền thông, kết hợp nghiên cứu chuyên sâu các ngành trọng điểm, có tiềm năng tăng trưởng cao như: Bất động sản – Xây dựng, Ngân hàng, Dược, Thực phẩm – Đồ uống, Bán lẻ, Du lịch, Logistics...

Phương pháp nghiên cứu phân tích truyền thông để đánh giá uy tín của các công ty dựa trên học thuyết Agenda Setting của 2 giáo sư Maxwell McCombs và Donald L. Shaw về sự ảnh hưởng, tác động của truyền thông đại chúng đến cộng đồng và xã hội, được Vietnam Report và các đối tác hiện thực hóa và áp dụng từ năm 2012. Theo đó, Vietnam Report đã sử dụng phương pháp Branch Coding (đánh giá hình ảnh của công ty trên truyền thông) để tiến hành phân tích uy tín của các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam.

Vietnam Report tiến hành mã hóa (coding) các bài báo viết về doanh nghiệp bảo hiểm được đăng tải trên các trang báo có ảnh hưởng tại Việt Nam trong thời gian từ tháng 06/2019 đến tháng 05/2020. Các bài báo được phân tích và đánh giá ở cấp độ câu chuyện (story – level) về 24 khía cạnh hoạt động cụ thể của các công ty từ sản phẩm, kết quả kinh doanh, thị trường... tới các hoạt động và uy tín của lãnh đạo công ty. Các thông tin được lựa chọn để mã hóa (coding) dựa trên 2 nguyên tắc cơ bản: Tên công ty xuất hiện ngay trên tiêu đề của bài báo, hoặc tin tức về công ty được đề cập tối thiểu chiếm 5 dòng trong bài báo, đây được gọi là ngưỡng nhận thức – khi thông tin được đánh giá là có giá trị phân tích. Các thông tin được đánh giá ở các cấp độ: Trung lập; Tích cực; Khá tích cực; Không rõ ràng; Khá tiêu cực; Tiêu cực.

Những nhận định trong thông cáo mang tính tổng quát và tham khảo cho các doanh nghiệp, đối tác; không phải nhận định cá nhân và không phục vụ mục đích hay nhu cầu của bất cứ nhà đầu tư cụ thể nào. Do đó, các bên liên quan nên cân nhắc kỹ tính phù hợp của các thông tin trên trước khi sử dụng để đưa ra quyết định đầu tư và hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc sử dụng các thông tin đó.

Vietnam Report