Tại cuộc làm việc với Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng ngày 10/11, Bộ Công Thương cho biết, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam mới chỉ sản xuất được một số ít chủng loại phụ tùng đơn giản, có hàm lượng công nghệ thấp, tỉ lệ nội địa hóa xe đến 9 chỗ thất bại, các doanh nghiệp ô tô thiếu liên kết, chuyên môn hóa…

Nội địa hóa chỉ được 10%

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, đến nay ngành sản xuất ô tô có trên 400 doanh nghiệp, đa số có quy mô vừa và nhỏ. Tổng công suất lắp ráp thiết kế khoảng 460.000 xe/năm. Trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 47%, doanh nghiệp trong nước khoảng 53%. Giai đoạn 2001-2014, tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao, đạt 17%/năm.

Mỗi năm, chỉ tính riêng các khoản thuế, ngành công nghiệp ô tô đóng góp khoảng trên 1 tỉ USD cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, ngành đã giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 100.000 lao động trực tiếp, nhiều loại xe tải đã đạt tỉ lệ nội địa hóa cao…

Tuy nhiên, Bộ Công Thương cũng thẳng thắn nhìn nhận ngành công nghiệp ô tô Việt Nam mới chỉ sản xuất được một số ít chủng loại phụ tùng đơn giản, có hàm lượng công nghệ thấp như gương, kính, ghế ngồi, bộ dây điện, ắc quy, săm lốp, một số sản phẩm nhựa. Trong số 400 doanh nghiệp, chỉ một số rất ít đầu tư dây chuyền dập thân, vỏ xe.

{keywords}

Ảnh minh họa

Mục tiêu đạt tỉ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi 60% vào năm 2010 đã hoàn toàn thất bại. Thực tế cho đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%, trong đó cao nhất là Toyota Việt Nam với riêng dòng Innova, đạt 37%.

Ngoài ra, các doanh nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam cũng chưa tạo ra được sự hợp tác - liên kết và chuyên môn hoá trong sản xuất, lắp ráp ô tô, sản xuất phụ tùng, linh kiện; chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn. Mục tiêu giá bán xe hợp lý, phù hợp túi tiền người dân cũng không đạt được vì giá bán xe tại Việt Nam vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực.

Đâu là lối thoát?

Giám đốc Hyundai Thành Công Việt Nam cho rằng, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ thị trường ô tô Việt Nam hiện là tương đối đầy đủ, vấn đề là triển khai thực hiện không hiệu quả. Vị này dẫn chứng, trong thực tế, còn tình trạng chưa đồng bộ, thậm chí là khác nhau ngay trong các quy định của cùng một bộ, của các bộ có liên quan. Tình trạng không đồng nhất này gây ra sự khó khăn cho các nhà đầu tư.

Về tỉ lệ nội địa hoá, 1 doanh nghiệp cho biết họ chắc chắn sẽ tìm kiếm tất cả các khả năng để có thể sản xuất trong nước nếu việc này mang lại hiệu quả. Đại diện Tổng công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp (VEAM) thì cho rằng, không nên đặt ra mục tiêu nội địa hoá, thay vào đó nên đặt mục tiêu cụ thể để phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.

Trước thực tế các loại thuế nhập khẩu ô tô sẽ giảm mạnh trong vài năm tới do thực hiện các thoả thuận thương mại, đại diện Công ty ô tô Trường Hải cho rằng sẽ có 2 kịch bản. Thứ nhất, các công ty đang sản xuất, lắp ráp tại Việt Nam, đồng thời có các cơ sở sản xuất lớn hơn tại các nước ASEAN, sẽ cố gắng duy trì sản xuất, duy trì một vài dòng xe, còn lại sẽ chuyển hướng sang nhập khẩu.

Kịch bản thứ 2 là sẽ xuất hiện một làn sóng đầu tư mới của các hãng lớn nhưng chưa có nhà máy tại ASEAN. Cùng với việc thực hiện các chính sách khuyến khích, thu hút đầu tư, rất có thể các nhà đầu tư này sẽ muốn qua Việt Nam để hướng tới thị trường khu vực. Như vậy, nếu có chính sách đúng, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội phát triển ngành công nghiệp ô tô.

Nêu ý kiến tại cuộc họp, Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho rằng nguyên nhân là mục tiêu đề ra quá cao, không phù hợp với thị trường. Ngoài ra chưa tạo được sự hợp tác, liên kết, chuyên môn hoá giữa các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô; các cơ chế, chính sách đối với ngành ô tô còn thiếu, chưa đồng bộ.

Theo Phó thủ tướng, mục tiêu thời gian tới là phát triển công nghiệp ô tô trở thành ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên, việc thực hiện các cam kết hội nhập sẽ đặt ngành ô tô Việt Nam trước những thách thức lớn.

Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng đề nghị các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô cần vào cuộc tích cực, chủ động hơn, thể hiện qua việc tăng cường kết nối, phối hợp giữa các doanh nghiệp trong nước, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp quốc tế.

Cùng với đó, các bộ, ngành liên quan khẩn trương rà soát cơ chế, chính sách để bổ sung các chính sách còn thiếu, điều chỉnh những chính sách chưa phù hợp và quan trọng hơn, tạo sự đồng bộ, thống nhất; phát triển công nghiệp hỗ trợ thông qua việc đẩy mạnh hợp tác, mở rộng thị trường và triển khai các chính sách để hấp dẫn các nhà đầu tư vào lĩnh vực này.

(Theo Một thế giới)