Hoàn thành mọi chỉ tiêu kế hoạch được giao

Năm 2019, tổng doanh thu toàn Tập đoàn đạt 167.983 tỷ đồng, bằng 101% kế hoạch, tăng 2,7% so với thực hiện năm 2018. Trong đó doanh thu Công ty mẹ đạt 45.730 tỷ đồng, bằng 100,3% kế hoạch, bằng 101,4%[1] so với thực hiện năm 2018. Lợi nhuận đạt 7.100 tỷ đồng bằng 100,1% kế hoạch, tăng 10% so với thực hiện năm 2018. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu đạt 10,9%, đạt 100% kế hoạch, tăng 7% so với năm 2018. Nộp ngân sách nhà nước 4.926 tỷ đồng, bằng 100% kế hoạch, tăng 10% so với thực hiện năm 2018. Năng suất lao động theo doanh thu trung bình đạt 1,521 tỷ/người, tăng 1,7% so với năm 2018.  

{keywords}
Đồng chí Nguyễn Hoàng Anh, UV Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban QLVNNTDN trao Huân chương Lao động hạng Nhất cho đồng chí Trần Mạnh Hùng, nguyên Chủ tịch HĐTV Tập đoàn VNPT

Về phát triển dịch vụ, VNPT cũng tạo bước đột phá trong việc phát hành gói cước Combo (bao gồm 3 dịch vụ: di động, băng rộng, MyTV) phù hợp với nhu cầu, hành vi tiêu dùng của từng nhóm đối tượng, dựa theo phân khúc khách hàng. Qua đó, dịch vụ MyTV có sự tăng trưởng đột phá về thuê bao phát triển mới, với hơn 750.000 thuê bao, tăng 210% so với thực hiện năm 2018. Tổng số thuê bao phát sinh cước ước tính đạt hơn 1,63 triệu thuê bao tăng 152% so với năm 2018.

{keywords}
Tổng Giám đốc VNPT Phạm Đức Long phát biểu khai mạc tại Hội nghị triển khai kế hoạch năm 2020 của Tập đoàn VNPT

Cũng trong năm 2019, VNPT đã giữ vững và phát triển thương hiệu VNPT, thương hiệu Vinaphone. Thương hiệu VNPT đã vươn lên vị trí thứ 2 trong TOP 10 thương hiệu lớn nhất Việt Nam. Trong khi đó thương hiệu Vinaphone cũng duy trì đứng thứ 7 trong Top 50 thương hiệu lớn nhất Việt Nam. Tập đoàn VNPT trở thành doanh nghiệp duy nhất tại Việt Nam có 2 thương hiệu nằm trong TOP 10 thương hiệu lớn nhất.

{keywords}
Chủ tịch Ủy ban QLVNNTDN Nguyễn Hoàng Anh phát biểu tại Hội Nghị

Cùng với đó, VNPT tiếp tục nghiên cứu phát triển và cho ra đời các sản phẩm đầu cuối mới đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tổng giá trị sản phẩm công nghiệp nội địa do VNPT tự chủ sản xuất, không phải nhập khẩu đạt hơn 8.000 tỷ đồng. Đặc biệt, giữa năm 2019, VNPT đã khánh thành nhà máy sản xuất sợi quang công nghệ cao đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á với công suất thiết kế lên tới 3,2 triệu km sợi quang/năm.

{keywords}
Thứ trưởng Bộ TT&TT Phạm Hồng Hải phát biểu tại Hội Nghị

Trong các hoạt động quốc tế, liên doanh Stream Net tại Myanmar đã bước vào năm hoạt động thứ 2 với doanh thu ước đạt 561.000 USD. VNPT cũng triển khai thành công giải pháp E-Office cho Văn phòng Chính phủ và Bộ Bưu chính viễn thông Lào, bước đầu đưa các dịch vụ số của Tập đoàn ra thị trường quốc tế.

{keywords}
Toàn cảnh Hội nghị

Dịch vụ số đi vào mọi mặt cuộc sống

Xác định chuyển đổi số là xu thế tất yếu và VNPT phải giữ vai trò dẫn dắt trong chuyển đổi số nền kinh tế, trong năm 2019, VNPT đã tập trung nguồn lực rất lớn cho lĩnh vực này và đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ.

Việc triển khai thành công Trục liên thông văn bản quốc gia và Cổng dịch vụ công quốc gia, hai thành tố vô cùng quan trọng trong kiến tạo chính phủ điện tử đã thể hiện vị trí tiên phong của VNPT trong việc đồng hành cùng Chính phủ trong triển khai chính phủ điện tử. Trục liên thông văn bản quốc gia được kết nối đến các hệ thống quản lý văn bản và điều hành của 95/95 đơn vị giúp tiết kiệm 1.200 tỷ đồng/năm.

Tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức và áp dụng công cụ quản trị hiện đại

Có được kết quả trên là nhờ VNPT đã làm tốt công tác tái cấu trúc theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Ủy ban QLVNN tại Doanh nghiệp cũng như quyết liệt trong việc áp dụng triệt để, toàn diện các công cụ quản trị hiện đại, theo tiêu chuẩn quốc tế.

Năm 2019, VNPT đã chính thức triển khai áp dụng phương pháp cải tiến chất lượng theo phương pháp Lean Six Sigma (LSS). Đã thành lập Hội đồng LSS ở cấp Tập đoàn và đơn vị, giúp nâng cao chất lượng nhiều dịch vụ. Công tác quản trị rủi ro DN tiếp tục được triển khai sâu rộng, giúp thay đổi nhận thức của người lao động về công tác này. Đồng thời VNPT cũng tiếp tục đổi mới mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp với mô hình eTOM, tránh chồng chéo trong mô hình tổ chức.

Thúy Ngà