Phóng viên: - Theo đánh giá của GS, Đề án 'Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030' (gọi tắt là Đề án 89) có ưu điểm gì?

GS Nguyễn Đình Đức: Đây là một đề án rất tích cực, phù hợp với thực tiễn và đáp ứng rất cao nhu cầu của các trường ĐH ở Việt Nam, vì mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng đến nay tỷ lệ tiến sĩ trong đội ngũ giảng viên đại học mới đạt khoảng 28%.

{keywords}
GS Nguyễn Đình Đức, Trưởng Ban Đào tạo ĐH Quốc gia Hà Nội. Ảnh: Thanh Hùng

Ngay từ năm 2013, với tư cách là Trưởng Ban Đào tạo của ĐHQGHN, tôi đã chủ trì xây dựng Đề án đào tạo tiến sĩ đạt chuẩn quốc tế ở ĐHQGHN, mục tiêu lựa chọn một số ngành xuất sắc như Toán học, Vật lý, Hóa học, Cơ học, Công nghệ sinh học,… đào tạo các nghiên cứu sinh (NCS) từ các nguồn khác nhau trong cả nước về ĐHQGHN làm luận án tiến sĩ với 3 hình thức như trên, với chuẩn đầu ra có công bố quốc tế như NCS được đào tạo hoàn toàn ở nước ngoài, nhưng rất tiếc Đề án này không có nguồn kinh phí hỗ trợ để triển khai thực hiện. Đề án 89 này đã giúp cho nguyện ước bấy lâu nay của chúng tôi, nay có thể trở thành hiện thực.

Đề án 89 có mục tiêu rất đúng và trúng là đào tạo đối tượng là giảng viên hoặc tạo nguồn giảng viên đại học, có thể hiểu là đào tạo những “máy cái” đào tạo nguồn nhân lực của nước nhà.

Hai là hình thức đào tạo rất linh hoạt. Những hình thức này sẽ không chỉ đào tạo NCS, mà còn góp phần nâng cao trình độ và năng lực hợp tác và hội nhập của đội ngũ giảng viên trong nước, thông qua NCS là cầu nối hợp tác với các GS nước ngoài, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc nâng cao chất lượng và đổi mới quy trình tổ chức và quản lý đào tạo NCS của các trường đại học trong nước.

Ba là các đối tác nước ngoài được lựa chọn là những ngành có uy tín, trong top 500 trong các bảng xếp hạng của thế giới;

Bốn là hình thức tuyển chọn với các tiêu chí cụ thể, rõ ràng, thu hút và khích lệ được các giảng viên trẻ làm luận án tiến sĩ, và cuối cùng, đó là quay trở về như hồi chúng tôi làm NCS 40 năm về trước: học toàn thời gian chính quy và còn được hưởng sinh hoạt phí trong quá trình đào tạo. Tôi cho rằng đào tạo tiến sĩ là phải như vậy và có như vậy, chúng ta mới kỳ vọng có nhiều luận án chất lượng tốt.

- Trong hướng dẫn triển khai Đề án này trong năm 2021 và 2022 của Bộ GD-ĐT có nêu yêu cầu là “Cơ sở đào tạo ở nước ngoài có ngành đào tạo thuộc nhóm 500 ngành hàng đầu tại các bảng xếp hạng theo nhóm ngành và lĩnh vực đào tạo có uy tín trên thế giới”. Quan điểm của GS ra sao?

Tôi cho rằng hướng dẫn như vậy là phù hợp và khả thi. Đúng là có nhiều bảng xếp hạng khác nhau, mỗi bảng xếp hạng lại có các tiêu chí khác nhau nhưng các bảng xếp hạng được thế giới thừa nhận đều là các bảng xếp hạng uy tín cả, nên tôi thấy cứ trong nhóm 500 ngành hàng đầu trong các bảng xếp hạng nào cũng là phù hợp.

{keywords}
 

- Việc này liệu có khả thi không khi mà những giảng viên thực sự có năng lực thì không khó để tự xin được các suất học bổng?

Việc này rất khả thi, vì như tôi đã nói đến ở trên, hiện nay trung bình mới khoảng 28% giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ, nhu cầu có học bổng đi làm tiến sĩ là rất lớn. Hơn nữa vì nhiều lý do khác nhau, không phải ai cũng có thể làm NCS ở nước ngoài, trong khi trong nước cũng có nhiều ngành rất mạnh, hoàn toàn có thể đào tạo tiến sĩ không thua kém nước ngoài, hơn nữa lại góp phần tiết kiệm ngân sách cho nhà nước.

- Có ý kiến cho rằng, tại sao lại cấp học bổng cho người đi mà không phải là thu hút bằng cách cấp tiền trực tiếp để thu hút các tiến sĩ về cơ sở giáo dục.

Theo tôi phải làm song song cả hai. Nhưng thực tế là cách hỗ trợ cho việc làm luận án như Đề án 89 sẽ giúp đạt mục tiêu không chỉ nâng cao chất lượng, trình độ, mà nhanh chóng chủ động đạt cả mục tiêu về số lượng đội ngũ giảng viên đại học có trình độ tiến sĩ.

- Theo hướng dẫn của Bộ GD-ĐT, cơ sở cử giảng viên đi đào tạo có trách nhiệm thu hồi học bổng và chi phí đào tạo đã cấp khi người được cử đi đào tạo vi phạm quy định. Việc này liệu có khả thi không, thưa GS?

Trước khi trả lời vào câu hỏi này tôi muốn đề cập đến mức kinh phí hỗ trợ cho NCS. Người làm luận án tiến sĩ chính là nhân lực khoa học công nghệ của nhà trường, phải xem những NCS là những nhà nghiên cứu, chứ không chỉ là người học. Vì vậy ở nhiều nước phát triển, học bổng hoặc sinh hoạt phí cấp cho NCS không chỉ đủ sống mà còn khá rộng rãi, để đảm bảo cho NCS sống tốt, yên tâm làm luận án (ngoài ra còn có những hỗ trợ khác về cơ sở vật chất, thiết bị thực hành, thí nghiệm; kinh phí đi hội thảo trong, ngoài nước) và thậm chí học bổng của NCS đủ trang trải nuôi được gia đình.

Vì vậy, tôi mong muốn đi đôi với Đề án 89, thì các định mức hỗ trợ NCS và hoạt động đào tạo tiến sĩ phải tới tầm và thỏa đáng.

{keywords}
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức trong buổi bảo vệ luận án tiến sĩ của học trò

Về điều khoản khoán, giao cho các trường chịu trách nhiệm thu hồi kinh phí bồi hoàn theo tôi là khó khả thi. Chỉ tương đối khả thi với các đối tượng đang là giảng viên cơ hữu của nhà trường.

Mặt khác cũng phải hình dung là không thể tránh khỏi khi theo Đề án 89 làm giảng viên, nhưng khi có bằng tiến sĩ, do nhiều nguyên nhân khách quan, lại chuyển sang các bộ ngành khác trong nước không làm giảng viên nữa, trong trường hợp này cũng nên cân nhắc việc có thu hồi học phí không? Nếu có thì thu như thế nào cho phù hợp?

Còn trường hợp khi người học theo Đề án đã có bằng tiến sĩ mà sau đó lại xin được việc ở làm ở nước ngoài, việc giao cho các trường thu hồi kinh phí, theo tôi là rất khó khăn và khó khả thi.

- Để tăng tỉ lệ tiến sĩ cho các trường ĐH thì có những cách nào khác? Như ĐH Quốc gia HN tăng tỉ lệ tiến sĩ bằng cách nào, thưa GS?

Tính đến 31/12/2020, tổng giảng viên cơ hữu của ĐHQGHN là 2067 người. Trong đó, có 402 GS và PGS, chiếm tỷ lệ 20,4%; 877 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, chiếm tỷ lệ 61%. Cá biệt một số trường như ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Công nghệ thì tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ đạt trên 85%.

Để tăng tỷ lệ và chất lượng tiến sĩ cho các trường đại học, thì giải pháp rất quan trọng là phải đầu tư xây dựng và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh trong trường đại học, để nhà trường ngày càng có nhiều giảng viên, nhà khoa học xuất sắc, những nhà khoa học đầu ngành, đầu đàn. Đào tạo NCS phải gắn với nghiên cứu khoa học, và thông qua môi trường NNC.

Với ĐHQGHN, đã có nhiều giải pháp rất quan trọng và hiệu quả như cho phép các đơn vị đào tạo được triển khai đào tạo dự bị tiến sĩ để các ứng viên có thời gian chuẩn bị tốt về ngoại ngữ và chuyên môn trước khi đăng ký làm NCS. Thu hút chuyển tiếp NCS, tức là các em sinh viên xuất sắc, có thành tích nghiên cứu tốt được giữ làm giảng viên tạo nguồn và cho làm NCS ngay sau khi tốt nghiệp đại học.

ĐHQGHN và các đơn vị đào tạo trong ĐHQGHN cũng quan tâm đầu tư học bổng cho NCS từ kinh phí của đơn vị, tích cực hợp tác với các doanh nghiệp trong và ngoài nước cấp học bổng cho NCS. Và chính thương hiệu, uy tín của ĐHQGHN cũng thu hút NCS về làm luận án tiến sĩ.

Hiện nay, số NCS được tuyển sinh hằng năm của ĐHQGHN đông nhất trong các cơ sở giáo dục đại học của cả nước.

- Xin cảm ơn GS!

Thanh Hùng

Xem Công văn 1943 về hướng dẫn đào tạo theo Đề án 89 năm 2021 - 2022 TẠI ĐÂY

Xem Quyết định số 89/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030 (Đề án 89) TẠI ĐÂY

Sau những đề án nghìn tỷ, Đề án 89 cử giảng viên học tiến sĩ có gì mới?

Sau những đề án nghìn tỷ, Đề án 89 cử giảng viên học tiến sĩ có gì mới?

Trước Đề án 89, trong vòng 20 năm trở lại đây, Bộ GD-ĐT từng chủ trì thực hiện 2 đề án đào tạo nhân lực trình độ tiến sĩ và thạc sĩ có kinh phí nhiều nghìn tỉ đồng.