- Nhân kỷ niệm 10 năm ngày Thủ tướng Võ Văn Kiệt qua đời, Tuần Việt Nam ghi lại những hồi tưởng của GS Võ Đại Lược, một thành viên chính thức của Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

1. Ông có một ưu điểm mà tôi đánh giá rất cao, và hết sức quan trọng là rất nhạy cảm với những vấn đề của thực tiễn đặt ra. Khi đã nghe và được thuyết phục rằng phải làm như vậy mới giải quyết được vấn đề, ông ấy quyết định ngay. Tất cả các văn bản trước khi thủ tướng ký ông đều hỏi chúng tôi, những người trong tổ tư vấn. 

{keywords}
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ảnh VietnamNet.

Ví dụ, có lần tổ tư vấn họp với Thủ tướng, có một người, tôi không nhớ tên đề nghị cấm đốt pháp vào dịp Tết Nguyên đán. Tôi thấy ông Kiệt có ghi lại mấy chữ. Sau đó, lệnh cấm đốt pháo được ban hành, sau khi ông Kiệt tham khảo ý kiến các giới trong xã hội.

Vụ thứ hai là vụ đê điều, khi người ta xây dựng nhà ở chân đê sông Hồng, khiến cho đê bị mối mọt, dẫn đến vỡ đê. Trong cuộc họp với tổ tư vấn, có người nêu ý kiến về chuyện đó. Sau khi tham khảo ý kiến rộng rãi, ông Kiệt yêu cầu tháo dỡ tất cả các nhà ở ven đê.

Ví dụ thứ ba là quyết định làm đường dây 500kv Bắc Nam. Quyết định này có một đặc điểm là cả TBT Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đều đồng ý, nên mặc dù Bộ trưởng Khoa học – Công nghệ Đặng Hữu phản đối quyết liệt, nhưng dự án vẫn được Trung ương nhất trí. TBT Đỗ Mười trước đó từng làm bộ trưởng, phó thủ tướng, rồi thủ tướng, nên 80% các quyết định về kinh tế đều hỏi ý kiến ông. Biết trước điều đó, ông Kiệt đã gọi tôi lên và giao nhiệm vụ sang trình bày với TBT Đỗ Mười, và thuyết phục ông đồng ý. Tôi lại là tư vấn riêng (không chính thức) của TBT Đỗ Mười từ vụ chống lạm phát nên tư vấn của tôi với ông Đỗ Mười luôn được lắng nghe.

2. Có thời điểm, có người phê phán đường lối chỉ đạo kinh tế của ông Võ Văn Kiệt, họ cho rằng ông "chệch hướng XHCN". Ông Trần Đức Nguyên giao cho tôi chuẩn bị bài phản biện lại quan điểm này. Tôi nêu mấy luận điểm như sau:

Một là khi đánh giá một nền kinh tế, chúng ta không nên xem tỷ trọng quốc doanh nhiều hay ít để đánh giá là có đi đúng CNXH hay không, mà phải xem vào tốc độ tăng trưởng và hiệu quả của nền kinh tế thế nào. Nếu như quốc doanh vẫn chiếm tỉ trọng lớn, nhưng tăng trưởng trì trệ, hiệu quả kinh tếthấp, thì còn lâu mới tiến lên CNXH được, mà phải nhìn vào tốc độ và hiệu quả. Và, nếu nhìn tốc độ và hiệu quả, thời ông Võ Văn Kiệt làm thủ tướng tốc độ tăng trưởng cao và hiệu quả nền kinh tế tăng rõ rệt.

Thứ hai, nếu tính về thành phần kinh tế, lúc Việt Nam chưa đổi mới thì khu vực quốc doanh chiếm tới 90%, trong khi kinh tế hộ gia đình (tư nhân) chỉ chiếm 5% thôi. Nếu theo quan điểm của một vài người thì lúc đó kinh tế Việt Nam là XHCN nhất, nhưng lại lâm vào khủng hoảng và lạm phát phi mã (có lúc tới 700%).

Tôi chỉ nói độ mươi phút thôi, nhưng ông Kiệt lắng nghe rất kỹ. Khi họp Thường vụ Bộ Chính trị bàn về kinh tế, ông Kiệt đã nói một mạch nửa tiếng đồng hồ để chứng minh Việt Nam không đi chệch hướng XHCN.

3. Vấn đề hội nhập (…). Lúc đó, trong Bộ Chính trị ý kiến phản đối hội nhập rất nhiều và rất mạnh. Ông Kiệt giao nhiệm cho tôi vụ sang trình bày với TBT Đỗ Mười. Sau một buổi ngồi nghe tôi giới thiệu những mặt lợi hại khi hội nhập, ông Đỗ Mười hoàn toàn đồng ý, và bảo rằng bây giờ phải nghĩ cách thuyết phục Bộ Chính trị. Ông giao cho tôi, với tư cách học giả, phát biểu cho Bộ Chính trị nghe.

Trước Bộ Chính trị, tôi đã trình bày, thứ nhất, tuy các tổ chức quốc tế này do các nước tư bản chủ nghĩa thành lập, nhưng trong tất cả những nguyên tắc của các tổ chức này đều được công bố công khai và không có một nguyên tắc nào là phản động cả, mà đảm bảo công bằng, và lợi ích của dân tộc. Thứ hai, trên thực tế, những tổ chức quốc tế này đã mang lại lợi ích cho tất cả những nước tham gia, và chứng minh điều đó không có gì là khó cả. Thứ ba, chúng ta không tham gia các tổ chức này thì chúng ta cô lập, đứng một mình, như trong thập kỷ 80.

Sau đó, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, rồi Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết mỗi người nói chừng nửa tiếng, về quan điểm từ góc độ ngoại giao và thương mại. Thế là Bộ Chính trị quyết định là Việt Nam sẽ gia nhập ASEAN, APEC và WTO, và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ…

Phải nói công tổ chức của ông Võ Văn Kiệt rất lớn trong chuyện hội nhập.

4. TBT Đỗ Mười không ít lần phàn nàn rằng cứ họp bộ tứ (Gồm TBT, Chủ tịch nước, Thủ tướng và Thường trực Ban Bí thư) ông Kiệt rất hay vắng mặt. Lý do rất đơn giản là cứ mỗi lần ông Kiệt phát biểu về vấn đề gì đó, có một số ý kiến luôn luôn phản ứng lại rất quyết liệt.

Ông Mười nói với tôi: ‘Cậu về bảo với ông Kiệt nên tham gia họp bộ tứ, do có những ý kiến còn trái chiều, nên nếu anh Kiệt có mặt, tỷ lệ hai bên là 2-2, và ý kiến của tôi với tư cách là Tổng Bí thư sẽ quyết định’.

Và khi ông Võ Văn Kiệt, người có tư tưởng đổi mới nhất, và ông Đỗ Mười, người mang tiếng bảo thủ nhất, đã nhất trí được với nhau, mọi chuyện đa phần thành công.

5. Ông Võ Văn Kiệt từng đi thăm Singapore, và đánh giá rất cao những thành tựu mà Singapore đạt được, và, theo ông, sở dĩ có điều đó là hoàn toàn nhờ vào Thủ tướng Lý Quang Diệu. Cho nên, ông Kiệt là người đích thân mời Bộ trưởng Cố vấn Lý Quang Diệu sang làm cố vấn cho ông, nhưng Bộ Chính trị không đồng ý. Ông Kiệt chia sẻ với tổ tư vấn rằng ‘bây giờ Bộ Chính trị không đồng ý để ông Lý Quang Diệu là cố vấn cho tôi, vậy ông ấy sẽ làm cố vấn cho tổ tư vấn các anh’.

Sau đó, chúng tôi mỗi tuần nghe ông Lý Quang Diệu chia sẻ 3-4 buổi về các kinh nghiệm quản lý, quản trị đất nước… Tôi thấy nhiều ý kiến Lý Quang Diệu nêu ra cho đến ngày nay, tức là sau một phần tư thế kỷ, vẫn có giá trị.

Tôi xin nêu 3 ý kiến thể hiện rõ nét nhất nhận định của mình.

Thứ nhất, chúng tôi có hỏi là, ‘theo kinh nghiệm ông làm thủ tướng, mức độ lạm phát của nền kinh tế ở mức nào là vừa phải’. Ông ấy trả lời là xấp xỉ thấp hơn mức tăng trưởng.

Thời ông Kiệt, và cả thời Thủ tướng kế nhiệm là ông Phan Văn Khải, đều duy trì mức độ lạm phát thấp hơn mức tăng trưởng.

Thứ hai, khi chúng tôi hỏi rằng ‘ông quan niệm như thế nào về đầu tư nước ngoài’, ông ấy trả lời, ‘đối với Singapore, chúng tôi chỉ ưu đãi những doanh nghiệp không phải của châu Á, kể cả Nhật, mà chỉ có Mỹ và châu Âu’. Chúng tôi hỏi tại sao, ông đáp ‘có hai lý do, một là là chỉ Mỹ và châu Âu mới có công nghệ nguồn, hai là các nước châu Á, thường không có công nghệ nguồn, khi chuyển giao thường là công nghệ hạng hai, hạng ba…, thêm nữa lại mang theo nhiều hoạt động tiêu cực vào’.

Thứ ba, ông Lý Quang Diệu khẳng định chính sách trọng dụng người tài Singapore là điểm rất quan trọng. Vì ‘khi tôi làm Thủ tướng chỉ có hai bộ trưởng là người Singapore, tức là bộ trưởng quốc phòng và bộ trưởng an ninh, còn các bộ trưởng khác tôi thuê người nước ngoài hết’. Ông nói ‘làm bộ trưởng ở Singapore lương rất cao, cao hơn cả tổng thống Mỹ, và đấy là một trong những lý do nước Singapore chúng tôi không có tham nhũng’.

Tất cả những điều chúng tôi nghe được trong mấy tuần lễ ông Lý Quang Diệu ở lại Việt Nam đều được báo cáo lại cho ông Võ Văn Kiệt. Trong ba điều mà ông Lý Quang Diệu đã nói, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thực hiện rất tốt điều đầu tiên.

Huỳnh Phan (ghi)

'Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng thích mô hình này'

'Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng thích mô hình này'

Mấy đoàn Israel hồi đó gặp Thủ tướng Võ Văn Kiệt và đề nghị cho họ thuê ít nhất 30 héc ta đất xấu nhất ở Việt Nam để họ làm thử. Ông Kiệt rất thích. Nhưng cơ chế hồi đó, cứ đá qua đá lại...