Một trong những chuyện thuộc về sinh hoạt đời thường bị coi là nhỏ (tiểu) nhưng nếu vướng mắc, có “vấn đề” lại thành chuyện lớn là “tiểu tiện”.

Chứng “tiểu tiện” bất tiện này khi nào là bệnh và phải xử lý thế nào?

Tiểu khó

Tiểu khó là cảm giác đi tiểu khó khăn, bắt buộc phải rặn mạnh để tiểu hết, nhưng sau khi tiểu vẫn có cảm giác không thoải mái vì còn nước tiểu trong bàng quang.

Tình trạng tiểu khó liên quan với sự tắc niệu đạo và/hoặc co bóp bàng quang bất thường.

Tiểu tiện là kết quả của sự thăng bằng giữa sự co bóp tống nước tiểu ra ngoài với lực cản của niệu đạo. Đa số các trường hợp tiểu khó là do tắc giải phẫu.

Triệu chứng: Ở đàn ông, đái khó thường phối hợp với các triệu chứng khác trong bệnh cảnh phì đại tuyến tiền liệt, viêm tuyến tiền liệt cấp tính, bệnh lý xơ cứng cổ bàng quang hoặc hẹp niệu đạo, các bất thường giải phẫu hay chức năng hoặc liệt bàng quang gặp trong bệnh Parkinson hay Sclerose en plaques.

Ở phụ nữ, thường do sa sinh dục, hẹp lỗ tiểu, khối u tiểu khung...

Tiểu tiện khó, lâu, thậm chí gây đau. Dòng nước tiểu nhỏ đi. Tuy nhiên dấu hiệu tiểu khó thường diễn biến chậm, tăng dần nên nhiều khi người bệnh không nhận biết được.

Tiểu khó là một trong những yếu tố nguy cơ gây sỏi bàng quang khi có kèm tồn đọng nước tiểu sau tiểu tiện. Như vậy, nếu có sỏi bàng quang, chúng ta buộc phải tìm nguyên nhân gây tắc dưới bàng quang hoặc bàng quang thần kinh (gây tiểu khó).

Chẩn đoán: Như đã nói, triệu chứng lâm sàng của tiểu khó thường rất nghèo nàn.

Niệu động học là khám nghiệm quan trọng cho phép xác định chức năng bàng quang, cơ thắt, mức độ tiểu khó thông qua tốc độ dòng tiểu.

Phải xét nghiệm nước tiểu 1 cách hệ thống.

Xác định nước tiểu tồn dư.

Việc chẩn đoán són tiểu sẽ khó khăn hơn nếu bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật tiểu khung hay phẫu thuật tiền liệt tuyến, niệu đạo. Tiểu khó do bệnh lý thần kinh rất khó xác định.

Cần phải tìm nguyên nhân của tiểu khó để tránh tình trạng gây tổn hại đến chức năng thận.

Điều trị: Dựa theo nguyên nhân thông thường là giải quyết nguyên nhân gây tắc bằng phẫu thuật. Điều trị nội khoa áp dụng cho các trường hợp đái khó do chức năng.

Đôi khi, với những trường hợp tiểu khó mức độ vừa, không biến chứng có thể chỉ cần theo dõi đơn thuần.

Tiểu nhiều lần, tiểu dắt

Tiểu nhiều lần/tiểu dắt là một trong những triệu chứng rối loạn tiểu tiện phối hợp với tình trạng bàng quang tăng hoạt tính với biểu hiện tăng số lần đi tiểu trong ngày. Tiểu dắt không thường xuyên phối hợp với cảm giác thôi thúc muốn đi tiểu hoặc tiểu gấp.

Triệu chứng: Số lần tiểu tiện trong ngày nhiều hơn bình thường (trên 7 lần vào ban ngày và phải thức dậy đi tiểu hơn 2 lần về đêm). Trong trường hợp nặng, cứ 15-20 phút lại phải đi tiểu, tuy nhiên mỗi lần chỉ có rất ít nước tiểu. Có nhiều nguyên nhân khác nhau. Tiểu nhiều lần về đêm gọi là chứng tiểu đêm (Pollakiurie norturne) còn nhiều về ban ngày gọi là tiểu dắt ban ngày (Pollakiurie diurne).

{keywords}

Khi có bất thường về đường tiết niệu, cần đi khám sớm để được tư vấn điều trị kịp thời (Ảnh minh họa: TM)

Chẩn đoán: Cần phải loại trừ các trường hợp sau:

Tiểu dắt do nhiễm khuẩn tiết niệu. Cấy nước tiểu sẽ cho phép xác định bệnh.

Tiểu dắt do bệnh tiết niệu xác định bằng soi bàng quang (các nguyên nhân gây kích thích bàng quang như sỏi, khối u, dị dạng).

Nội soi bàng quang, xét nghiệm tế bào nước tiểu, siêu âm bàng quang (đo nước tiểu tồn đọng sau tiểu tiện và những bất thường của thành bàng quang) là những khám nghiệm cần thiết.

Niệu động đồ cho phép xác định cơ chế của đái dắt. Nếu đái dắt do nguyên nhân thần kinh phải khám lâm sàng thần kinh sàn chậu.

Tiểu dắt có thể do sự kích thích bàng quang (nghiện thuốc lá, dùng thuốc lợi niệu, viêm bàng quang, viêm tuyến tiền liệt, sỏi, khối u); do khả năng tống xuất hết nước tiểu của bàng quang giảm; hoặc do bệnh lý gây giảm thể tích bàng quang.

Điều trị: Việc đầu tiên là phải chỉnh sửa những tập tính xấu, tránh các chất kích thích (rượu, trà, cà phê). Giảm uống nước, tránh uống nhiều trước khi ngủ. Điều trị bệnh nguyên và nguyên nhân gây tắc.

Một số loại thuốc rất hiệu quả (anticholinergique), tuy nhiên phải tránh các tác dụng ngoài mong muốn như táo bón, khô miệng.

Tập vật lý trị liệu giúp việc quen dần với việc kìm tiểu.

Nếu những biện pháp trên không hiệu quả, bệnh đã chuyển sang giai đoạn khó chữa. Có thể phải sử dụng đến phương pháp tiêm toxine botulique vào cơ bàng quang khi đã loại trừ bệnh lý thần kinh của tủy sống.

Điều trị ngoại khoa bằng cấy điện cực bàng quang (Neuromodulation) hoặc phẫu thuật tăng thể tích bàng quang được áp dụng khi các biện pháp điều trị không hề có tác dụng.

Tóm lại, tiểu tiện là chuyện nhỏ mà không nhỏ, khi có vấn đề có thể khiến chất lượng sống suy giảm, thậm chí nếu không kịp thời phát hiện và điều trị có thể “cái sảy nảy cái ung”, chuyện sinh hoạt nhỏ biến thành chuyện lớn về sức khỏe. Do đó, khi có những triệu chứng bất thường đường tiểu, cần đi khám chuyên khoa để được điều trị sớm nếu có bệnh.

(Theo BS. Lê Sĩ Trung/SK&ĐS)