Sau những lần diện kiến nhiều thầy bùa và các “tín đồ” bùa chú, tôi nhận ra một điều: Bùa chú chưa nhiều người tin nhưng người đã tin thì không khác gì một “con nghiện”, phó thác tất cả vào chúng.

Bùa chú ở nước ta chủ yếu là phát sinh và du nhập, nhiều người không tiếc công sức, tiền bạc xuất ngoại để tìm mua bằng được bùa “gốc” với hy vọng thỉnh được bùa thiêng thật sự. Một làn sóng ồ ạt xuất ngoại thỉnh bùa đã manh nha từ lâu và đang ngày càng lan rộng.

Sau nhiều ngày tiếp xúc với pháp sư T., khi đã thân thiết, ông không ngại khoe với tôi “danh sách khách hàng” của mình. Nhiều người trong số đó là đại gia giàu có, không kinh doanh vài cửa hàng thì cũng là giám đốc doanh nghiệp lớn nhỏ.

“Cầu tình sang Đài, cầu tài sang Thái”

Ông T. cho biết, trong giới kinh doanh thì việc cúng bái lễ lạt nhiều lần trong năm không hiếm. Ngoài các lễ cúng đất, cúng mở hàng... theo tín ngưỡng, nhiều người phải thường xuyên thỉnh pháp sư tổ chức một loạt các nghi lễ huyền thuật để giao thiệp với âm binh bằng bùa chú để hóa giải hoặc mưu cầu gì đó.

Pháp sư T. giúp tôi gặp ông H. giám đốc một công ty xây dựng ở Q.Tân Bình, TP.HCM mà theo lời ông, vị này là một “tín đồ” hạng nặng của bùa chú. Ông này xưa khởi nghiệp là thợ hồ, sau làm thầu các công trình nhỏ rồi phát triển dần thành doanh nghiệp. Giám đốc H. ở một căn nhà lớn tại P.13, Q.Tân Bình, thoạt nhìn kiến trúc không có gì đặc biệt. Nhưng được pháp sư T. thuyết phục, ông cho tôi “tham quan” phòng riêng của mình, nơi có đặt một chiếc tủ kính lớn nhiều ngăn.

Tôi ngẩn ngơ với chiếc tủ cao rộng, đựng hàng trăm loại bùa ngải. Có lá bùa nhỏ như ngón tay, có cái lớn đúc thành tượng hình thù kỳ quái. Trên các thứ bùa là nhằng nhịt chữ đủ thứ tiếng. Ông H. cho biết hầu hết các loại bùa này có xuất xứ từ Thái Lan hoặc Đài Loan do chính ông bỏ ra nhiều năm, nhiều lần cất công đi mua về. Hỏi về giá trị, ông khoát tay nói: “Cái rẻ nhất chỉ vài chục đô-la, đắt thì vài ngàn đô la. Tuy nhiên, giá trị về quyền năng thì vô giá, không thể nào nói được”.

{keywords}

Ông H. không sưu tầm bùa, mỗi thứ ông mua về đã hoặc đang sử dụng cho mục đích riêng mà ông không thể chia sẻ được, vì nếu làm thế bùa sẽ... hết phép.

Giám đốc H. cho biết đa phần bùa ngải của ông thuộc dòng phái Kumanthong ở Thái Lan. Mỗi năm ông đi Thái 2-3 lần để thỉnh bùa, chủ yếu phục vụ việc làm ăn. Lôi từ trong ngăn tủ nhỏ một chiếc tượng bằng ngón tay cái, ông cho biết vừa mua ở Thái về, với giá 100USD. “Linh lắm! Thỉnh bùa về lập tức có ngay hiệu quả” - ông nói chắc mẫm.

Tình hình làm ăn khó khăn, một loạt các công trình xây dựng ông nhận thầu bị đình đốn vì chủ đầu tư không thanh toán tiền. Thế là ông lại cất công sang Thái thỉnh bùa Kumanthong để khai mở tiền tài. Chỉ vài tháng, hiệu quả thấy rõ, công việc làm ăn vô cùng thuận lợi. “Bỏ ra chưa tới hai ngàn đô đi Thái vừa du lịch vừa mua bùa. Khi về thu lại gấp vài chục lần, dại gì không làm”-ông nói.

Thấy tôi có vẻ ngờ vực về “quyền năng” của bức tượng nhỏ xíu, ông H. chia sẻ: “Bí mật thực sự nằm ở bên trong nó”. Thì ra, Kumanthong là loại bùa “quỷ nhi” của người Thái, làm từ... xác thai nhi. Mỗi thứ bùa đều bắt buộc có một bộ phận của hài nhi dù lớn hay nhỏ thì mới phát huy tác dụng. Kumanthong có rất nhiều quyền năng, từ cầu an, cầu duyên cho đến hại người. Tuy nhiên, hầu hết các loại bùa được bán đều chỉ mang mục đích chiêu tài và tạo hòa khí trong sinh hoạt, làm ăn sinh tài.

Ông H. cho biết để mua bùa Kumanthong ở Thái Lan không khó. Loại này bán công khai ở khắp nơi trên nước bạn. “Ở Thái có hẳn các đường dây tuồn hài nhi do nạo phá thai ra ngoài để làm bùa” - ông H. khẳng định. Bùa có đủ hình dạng, từ móc khóa, mặt dây chuyền cho đến tượng lớn. Giá cả tùy thuộc vào năm sản xuất và tùy vào uy tín nơi bán. Thái Lan có hàng vạn ngôi chùa, nhưng chỉ có 210 ngôi chùa bán bùa Kumanthong rải khắp đất nước, nhưng tập trung đông nhất vẫn là Bangkok và Chiang Mai. Tuy nhiên, vì là bùa chú nên thật giả khó biết, chỉ người thân quen với nhà chùa mới chắc chắn mua được hàng thật.

Bản thân ông là “khách ruột” của hai ngôi chùa bán Kumanthong, mỗi lần xuất ngoại đặt hàng đều được đích thân các pháp sư cao tay làm. “Người Việt sang Thái mua bùa trước đây rất hiếm nhưng nay là chuyện thường. Mỗi năm có vài ngàn người sang Thái thỉnh bùa, đông nhất vẫn là giới cò đất và bảo hiểm vì nghề này cần nhiều sự may mắn. Nhiều người cùng đi thỉnh bùa mà quen nhau, nhẵn mặt” - ông H. kể.

Theo lời ông, những người sành và tin vào bùa ngải, nhất là cánh thương gia, ngoài các loại bùa khác nhau, đặc biệt phải có bùa Kumanthong để cảnh báo nguy hiểm hoặc bảo hộ thân chủ. Vì nếu không cẩn thận sẽ bị đối thủ cạnh tranh dùng bùa ngải hại mình, có thể vướng vào đủ thứ rắc rối khác. Ông H. chia sẻ câu chuyện của bạn mình, chủ một doanh nghiệp bất động sản giàu có, vợ con đề huề.

Trong những lần tiếp khách với đối tác, ông thường đến quán Đ. ở P.22, Q.Bình Thạnh vì “kết” cô L. có dáng cao ráo, ăn nói nhỏ nhẹ. Dần dà, ông mê luôn cô L. Từ chỗ cặp bồ vui chơi, ông bỏ luôn vợ con để sống với cô L.. Nhiều người biết chuyện tin chắc cô L. đã dùng bùa yêu dụ ông nhưng ông này nhất mực không tin. “Nhiều trường hợp như vậy rồi. Nhưng bị ếm bùa thì đâm ra lú lẫn, không thể nào thuyết phục được” - ông H. nói.

Lâu nay, một loạt đại gia dính bẫy của chân dài không phải là chuyện hiếm. Những người trong giới buôn hương bán phấn vẫn truyền tai nhau và tìm mua loại bùa tên là Hồ Ly. Bùa này được rao bán rất nhiều trên mạng. Tuy nhiên, rất nhiều cô gái sẵn tiền sẵn sàng qua tận Đài Bắc (Đài Loan) tìm mua bùa tận gốc cho linh nghiệm. Bùa này được bán đầy rẫy bên Đài, giá cả vô chừng, từ vài chục đến vài ngàn USD.

Bùa Hồ ly vốn dùng để tạo hòa hợp cho chồng vợ nhưng dần dà được phát triển thêm nhiều công năng hắc ám. Nguy hiểm nhất là chúng được dùng để chiêu dụ tình cảm. “Đi Đài Bắc nhiều lần, tôi gặp nhiều người Việt qua tìm mua bùa Hồ ly. Có rất nhiều cô gái trẻ đẹp mua để câu các đại gia lắm tiền nhiều của” - ông H. khẳng định.

{keywords}

Sự thật kinh động

Cùng pháp sư T. rời nhà ông giám đốc “nghiện” bùa, tôi thật sự mông lung trước những câu chuyện hư hư thực thực lần đầu được nghe đến. Đánh liều hỏi ông T. những điều vị giám đốc kia nói có đúng không thì ông gật đầu. Hai mươi năm trong nghề huyền thuật, ông khẳng định tất cả những công dụng của bùa chú đều có thật. Nhưng điều ông quan tâm lại nằm ở mặt trái của nó. “Bùa ngải là thứ linh thiêng và có quy luật của nó. Nhưng nó cũng là con dao hai lưỡi.

Người chưa hiểu biết mà lạm dụng sẽ đem lại những hậu quả khôn lường”- ông phân tích. Bùa ngải muốn có tác dụng, người sử dụng phải tuân thủ những quy định về cúng tế rất nghiêm ngặt, tùy vào từng trường phái. Người sử dụng bùa ngải mà cúng tế sai hoặc làm thất lạc thì phạm vào điều cấm kỵ và trả giá rất đắt. Nhẹ thì thất bại bệnh tật, nặng thì nghiệp chướng tai nạn, có khi mất mạng. Tùy vào công năng của bùa lớn hay nhỏ mà phải trả giá tương ứng.

Cũng theo ông, bùa ngải là một cách thỏa hiệp hoặc điều khiển âm binh. Về năng lực, không có bất cứ người dùng nào có thể làm được việc này. Đặc biệt, người điều khiển bùa ngải chỉ có thể là người tạo ra chúng. Bùa cũng có hạn định, không thể dùng mãi được. Đến khi hết hạn dùng, người thỉnh bùa phải trả về đúng gốc để người cho bùa thu về, giải phóng âm binh bên trong chúng.

Nếu không giải phóng đúng hạn thì người giữ bùa chắc chắn sẽ gặp điều không may. Nhất là đối với loại bùa Kumanthong vốn dùng linh hồn hài nhi nên thường theo chủ quấy quá. Khi không dùng đến mà thải loại ra ngoài, chúng trở thành những con “ma đói”, nếu không được thỏa mãn, chúng không hại thân chủ thì cũng đi tìm cách hại người khác. Những người nghiên cứu huyền thuật lâu năm như ông gọi đó là “rác tâm linh” vô cùng nguy hiểm.

Ở Việt Nam số pháp sư cao tay có thể hóa giải mọi loại bùa chú chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Đối với các loại bùa từ nước ngoài, việc thỉnh về rất dễ nhưng khi tiễn đi lại cực khó. Loại “rác tâm linh” này dồn ứ lâu ngày càng nguy hại. “Bùa ngải hay cái gì cũng vậy. Nếu không cẩn thận thì lợi bất cập hại. Người dùng bùa ngải nhất thiết phải rành rẽ về chúng.

Nhiều năm nghiên cứu, tôi gặp không ít người phải trả giá đắt vì chính bùa ngải của mình. Buồn là nó không đủ sức răn đe, cảnh tỉnh những người mù quáng và thiếu hiểu biết" - ông buồn rầu kết luận.

(Theo DanViet)