- Tôi đi xuất khẩu lao động tại Tiệp Khắc 3 năm, để dành được gần 1 tỉ đồng đều gửi về cho vợ ở nhà. Vợ tôi không đưa cho bố mẹ tôi đồng nào mà dùng số tiền đó mua đất, xây nhà, thậm chí nuôi bồ riêng. Nay tôi trở về cô ấy đòi li hôn chia tài sản. Toàn bộ của cải, đất đai đều đứng tên cô ấy. Nếu li hôn tôi có lấy lại tiền và đất của mình được không?

TIN BÀI KHÁC

{keywords}
Tôi rất chán nản vì toàn bộ số tiền gửi về cho vợ bị chiếm đoạt (Ảnh minh họa)

Thứ nhất: Tài sản chung vợ chồng.

Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản chung vợ chồng như sau: 

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”

Mảnh đất trên tuy mang tên vợ bạn, nhưng được mua trong thời kì hôn nhân, nên để xác định đây là tài sản riêng của vợ bạn hay tài sản chung của vợ chồng bạn cần xác định nguồn gốc số tiền dùng để mua mảnh đất trên. Bạn chứng minh qua các chứng cứ gửi tiền về cho vợ.

Thứ hai: Chia tài sản khi ly hôn.

Trong trường hợp này, khi ly hôn, nếu bạn có chứng cứ chứng minh mảnh đất trên được mua bằng thu nhập của bạn trong thời kì hôn nhân thì đây được coi là tài sản chung vợ chồng, tài sản chung sẽ được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố quy định tại khoản 2 điều 59 Luật hôn nhân gia đình 2014:

“2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.”

Tư vấn bởi Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, Hà Nội.

Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ banbandoc@vietnamnet.vn (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ)

Ban Bạn đọc